Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 48
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
95
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang
một trăm lẻ bảy, xem từ ba chữ cuối
cùng:
“Hựu
bổn kinh trung đệ tam thập nhị phẩm
hạ, Di Lặc đương cơ” (lại nữa,
trong kinh này từ phẩm ba mươi hai trở đi,
ngài Di Lặc là đương cơ). Đức Phật
thuyết bộ kinh này gồm tổng cộng bốn
mươi tám phẩm, trong ba mươi mốt phẩm đầu,
tôn giả A Nan là đương cơ, trong các phẩm
cuối từ phẩm ba mươi hai đến phẩm
bốn mươi tám, Di Lặc Bồ Tát là đương
cơ, điều này cũng hy hữu và là duyên phận thù
thắng. Người đương cơ biểu thị
loại căn cơ nào thích hợp để tu học pháp
môn này. Di Lặc làm đương cơ có ư nghĩa
rất sâu, v́ trong thời kỳ Mạt Pháp của
đức Thế Tôn, trong xă hội hiện thời có
rất nhiều tin đồn Di Lặc Bồ Tát đă thành
Phật, sắp đến thế gian này hóa độ chúng
sanh. Đấy là lời lẽ yêu mị dối
người, về căn bản chẳng có chuyện này!
Trong kinh, đức Phật đă nói rất rơ ràng, khi nào Di
Lặc Bồ Tát sẽ đến thành Phật trong thế
gian của chúng ta? Trong phần trước, chúng ta đă đọc
thấy “tứ thiên niên chi
hậu” (sau bốn ngàn năm), bốn ngàn năm ấy
là bốn ngàn năm trên cơi trời Đâu Suất, không
phải là bốn ngàn năm trong nhân gian chúng ta. Nay Di
Lặc Bồ Tát đang ở Đâu Suất Thiên, thọ
mạng của Đâu Suất Thiên là bốn ngàn tuổi.
Sự khác biệt thời gian giữa Đâu Suất Thiên
và thế gian chúng ta rất lớn, hiện nay [sự sai
biệt ấy] được gọi là “thời sai”,
một ngày trên ấy bằng bốn trăm năm trong nhân
gian. Nếu nói theo nhân gian, thọ mạng con người
rất dài th́ sống được một trăm năm,
trên trời Đâu Suất cũng là một ngày gồm hai
mươi bốn giờ, dùng thời gian trên trời
Đâu Suất để tính toán, [người trong nhân gian
thọ trăm tuổi] sống được bao nhiêu
giờ? Sáu giờ. Sáu giờ của họ bằng một
trăm năm của chúng ta, sai khác rất lớn.
Đổi theo cách tính thời gian trên địa cầu,
sẽ là năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn
năm, năm mươi bảy ức! Thời gian c̣n dài
quá, rất ư là lâu! Trên thế gian nếu không có Phật
xuất thế sẽ hết sức đáng thương,
năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, tôi
tính sai rồi! Nhưng Phật, Bồ Tát vô cùng từ bi,
trong lúc không có Phật xuất thế, tuy hiện thời
Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ, nhưng
sức ảnh hưởng của Ngài, tức
là pháp vận của lăo nhân gia là một vạn hai ngàn
năm. Dựa theo cách ghi chép của tổ sư
đại đức Trung Quốc từ xưa, Thích Ca Mâu
Ni Phật sanh vào năm thứ hai mươi bốn
đời Châu Chiêu Vương, lăo nhân gia nhập diệt
vào năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục
Vương. Nếu tính theo cách này, phải biết từ
khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến
nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, khác với
cách tính của người ngoại quốc. Theo cách tính
của người ngoại quốc th́ là hơn hai ngàn
năm trăm năm, sai biệt sáu trăm năm. Chúng ta
chẳng cần phải khảo cứu chuyện này, “phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”, chuyện này không quan
trọng, điều quan trọng nhất là hiểu lư,
chúng ta niệm Phật, cầu nhất tâm bất loạn,
đó là trọng yếu.
Do vậy, tuy Phật chẳng
tại thế, kinh điển vẫn c̣n. Kinh Đại
Thừa nói chỗ nào có kinh điển, chỗ đó có Pháp
Thân của Như Lai hiện diện. Đức Phật
dùng kinh giáo để độ chúng sanh, những thứ
khác đều thuộc loại kỷ niệm, chẳng
hạn như xá-lợi của Phật hoặc xương
ngón tay đức Phật đều thuộc loại
kỷ niệm. Dẫu quư vị đến xem cho nhiều,
lễ bái nhiều đến đâu đi nữa, vẫn
chẳng thể khai ngộ, cũng chẳng thành Phật.
Chúng ta muốn khai ngộ, muốn thành Phật, vẫn phải
nương theo giáo huấn trong kinh điển để
nghiêm túc tu hành. Đó là chánh pháp, chẳng phải là mê tín,
phải hiểu đạo lư này. “Di Lặc làm
đương cơ” có nghĩa là trong thời kỳ
Mạt Pháp, Di Lặc Bồ Tát dạy chúng ta pháp môn ǵ?
Dạy chúng ta niệm Phật, dạy chúng ta cầu sanh Di
Đà Tịnh Độ, chẳng phải là Di Lặc
Tịnh Độ. Phải hiểu ư nghĩa này. Nếu
chẳng hiểu ư nghĩa này, phần sau kinh, từ
phẩm ba mươi hai trở đi, ngài Di Lặc làm
đương cơ sẽ chẳng có ư nghĩa ǵ hết!
Do vậy, chúng ta phải hiểu, phải thấu hiểu
ư nghĩa biểu thị pháp của đức Phật.
Không chỉ là hiện thời Di Lặc Bồ Tát dạy
chúng ta phải niệm A Di Đà Phật cầu sanh
Tịnh Độ, mà trong tương lai, tức là vào
năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm sau, khi
Di Lặc Bồ Tát đến thành Phật trong thế gian
này, vẫn giảng bộ kinh này, vẫn tuyên dương
Tịnh Độ, khuyên dạy mọi người
niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, [phải là như vậy] th́ sự
biểu thị pháp mới là viên măn. Nếu không, Ngài
biểu thị pháp có ư nghĩa ǵ đâu? Đối với
những chỗ như thế này, xem kinh phải chú tâm,
chớ nên hời hợt qua loa đọc lướt qua.
V́ thế, ở chỗ này, [kinh điển] đă
đặc biệt nhắc nhở chúng ta.
Lại xem tiếp, “đệ tứ thập lục
phẩm, Phật phó chúc Di Lặc đại sĩ viết:
- Ngă kim như lư tuyên thuyết như thị quảng
đại vi diệu pháp môn” (trong phẩm bốn
mươi sáu, đức Phật phó chúc Di Lặc
đại sĩ: “Ta nay đúng lư tuyên thuyết pháp môn vi
diệu rộng lớn như thế”), đó là nói về
bộ kinh này, “nhất
thiết chư Phật chi sở xưng tán”
(được hết thảy chư Phật khen ngợi).
Ở đây chúng ta thấy, mười phương
hết thảy chư Phật Như Lai tán thán Thích Ca Mâu Ni
Phật tuyên dương pháp môn này, khuyên dạy đại
chúng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. “Phó chúc nhữ đẳng tác
đại thủ hộ, đương linh thị pháp
cửu trụ bất diệt” (dặn ḍ, giao cho các ông
hăy bảo vệ lớn lao, khiến cho pháp này tồn
tại lâu dài chẳng diệt). Đó là lời phó chúc
của Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng là lời căn
dặn Di Lặc Bồ Tát, ông phải hộ tŕ pháp môn này,
khiến cho pháp môn này tồn tại lâu dài trong thế gian,
chẳng bị diệt mất. “Di
Lặc thừa Phật phó chúc, hoằng tŕ thị kinh” (Di
Lặc tuân lời Phật phó chúc, hoằng
dương, hộ tŕ kinh này). Hoằng (宏) là hoằng dương, Tŕ (持) là y giáo phụng
hành, Di Lặc Bồ Tát cũng niệm A Di Đà Phật
cầu sanh Tịnh Độ. “Thị
cố đại sĩ, bất đản đương
lai Long Hoa hội thượng tất thuyết thử kinh”
(v́ vậy, đại sĩ không chỉ trong tương lai
ắt nói kinh này trong hội Long Hoa), Ngài tiếp nhận
lời phó chúc của Thích Ca Mâu Ni Phật, lẽ nào trong ba
hội Long Hoa chẳng giảng kinh này? Thích Ca Mâu Ni Phật
nhiều lần tuyên thuyết bộ kinh này, chúng ta có
thể suy luận trong tương lai Di Lặc Bồ Tát
xuất hiện trong cơi đời, Ngài [thuyết pháp]
chỉ có ba hội, không giống như đức Thế
Tôn [Thích Ca Mâu Ni Phật]. Đức Thế Tôn là hơn ba
trăm hội, ngài Di Lặc chỉ có ba hội. Chúng ta có
lư do để tin tưởng, trong mỗi hội, Ngài
đều giảng bộ kinh này, đều tuyên
dương pháp môn này th́ mới chẳng phụ bạc
sự phó thác của Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp môn này
trọng yếu ngần ấy! “Trực
thị tận vị lai tế diệc tất
thường thuyết bất tuyệt” (măi cho
đến đời vị lai ắt cũng thường
nói chẳng dứt), chúng tôi đồng ư với cách nh́n
của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trong câu này. V́ sao?
V́ chỉ có pháp môn này có thể khiến cho người
thuộc hết thảy căn tánh thượng trung hạ
thành tựu viên măn trong một đời. Chỉ có pháp môn
này là thành tựu viên măn trong một đời, tám vạn
bốn ngàn pháp môn đều chẳng thể khiến cho
quư vị thành tựu trong một đời. Do vậy,
chúng ta rất may mắn gặp được pháp môn này,
khó có lắm! Bài kệ Khai Kinh có câu: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”,
cư sĩ Bành Tế Thanh nói: “Một
ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp
đến nay” mà chúng ta đă gặp. Những
người nói các câu ấy đều khó có, nếu
chẳng phải thật sự là bậc tái lai sẽ không
thể nói ra lời ấy được! Nay chúng ta có duyên
nghe được, hăy nên nắm chắc nhân duyên hy hữu
khó gặp này, quyết định thành tựu trong một
đời này. Phải thật sự y giáo phụng hành,
phải quyết định nắm chặt cơ hội
này, chớ nên bỏ lỡ, đó là đúng. Di Lặc
Bồ Tát được giới thiệu tới đây.
Tiếp theo đó là giới
thiệu Hiền Kiếp, v́ trong kinh văn có nói: “Cập Hiền Kiếp nhất
thiết Bồ Tát” (và hết thảy các vị Bồ
Tát trong Hiền Kiếp). Kiếp (Kalpa) là một danh
xưng thời gian trong Phật pháp, là một khoảng
thời gian rất dài. Kiếp được nói
đến ở đây là “đại kiếp”. Kiếp có
ba thứ: Tiểu kiếp, trung kiếp, và đại
kiếp. Có rất nhiều cách giải thích tiểu
kiếp, trong kinh có đến mấy cách nói, nhưng
đức Phật thường dùng tuổi thọ của
con người để nói. Tuổi thọ con người
ngắn nhất là mười năm, đây là nói theo
tuổi thọ b́nh quân (tuổi thọ trung b́nh) của
cư dân trong thế gian này. Nói chung, tuổi thọ trung
b́nh trong thế giới hiện thời là bảy
mươi tuổi, cổ nhân thường nói: “Nhân sanh thất thập cổ
lai hy” (người sống bảy mươi xưa nay
hiếm). Trong thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật
xuất thế, tuổi thọ b́nh quân là một trăm
tuổi. Khi con người thọ mười tuổi,
cứ mỗi một trăm năm, tăng thêm một
tuổi, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi là
đạt tới cực hạn; từ tám vạn bốn
ngàn tuổi, cứ mỗi trăm năm bèn giảm một
tuổi, lại giảm đến mười tuổi,
[một chu kỳ] một tăng một giảm được
gọi là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu
kiếp là một trung kiếp, bốn trung kiếp là
một đại kiếp. Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa) là
danh xưng của đại kiếp hiện thời. Chúng
ta đang sống trong đại kiếp ấy, một đại
kiếp có bốn trung kiếp, trung kiếp là Thành, Trụ,
Hoại, Không, đó là bốn trung kiếp, mỗi trung kiếp
gồm hai mươi tiểu kiếp, thời gian
được tính theo cách như vậy. Hiện thời
là Trụ kiếp trong Thành, Trụ, Hoại, Không, nay chúng ta
đang thuộc Trụ Kiếp, “danh
vi Hiền Kiếp” (có tên là Hiền Kiếp).
“Tại
thử đại kiếp trung, hữu thiên Phật
xuất thế” (trong đại kiếp này có một
ngàn vị Phật ra đời). V́ sao gọi là Hiền?
Trong đại kiếp này có một ngàn vị Phật
xuất hiện trong thế gian này. Thích Ca Mâu Ni Phật là
vị thứ tư, vị thứ năm kế tục là
Di Lặc Bồ Tát, đến thế gian này làm Phật,
đây là vị Phật thứ năm. Phải biết sau
khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật kết thúc,
vẫn phải là sau năm mươi bảy ức sáu ngàn
vạn năm, Di Lặc Bồ Tát mới đến thế
gian này thị hiện thành Phật. Thời gian không có
Phật, không có giáo huấn của thánh nhân, tập tánh
của chúng sanh rất khó dứt trừ, khổ chẳng
thể nói được! Phật, Bồ Tát từ bi, trong
thời gian không có Phật ấy, Địa Tạng
Bồ Tát phát nguyện trụ trong thế giới, tiếp
nhận sự phó thác của chư Phật Như Lai, thay
thế Phật hóa độ chúng sanh. Chúng ta hăy suy nghĩ,
trong khoảng thời gian dài ngần ấy, Phật
xuất hiện đúng là “hoa
Đàm thoáng hiện”, thời gian xuất hiện quá
ngắn ngủi. Địa Tạng Bồ Tát từ bi
đến cùng cực, pháp hội của Địa
Tạng Bồ Tát thù thắng hơn các pháp hội Vô
Lượng Thọ, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. V́ sao? Thích Ca Mâu Ni
Phật tại Đao Lợi Thiên Cung giảng kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, ai
đến tham gia pháp hội? Mười phương
hết thảy chư Phật Như Lai. Quư vị nói xem có
tuyệt diệu hay không? Trong các kinh điển khác, chúng ta
thấy lúc đức Thế Tôn mở pháp hội,
người nào tham gia? Mười phương Bồ Tát
đến tham gia, Thanh Văn đến tham gia, chư thiên
đến tham gia, chẳng thấy chư Phật Như
Lai đều đến tham gia. V́ sao? Địa Tạng
Bồ Tát phát tâm là thật, “địa
ngục bất không, thệ bất thành Phật”
(địa ngục chẳng trống, thề không thành
Phật). Từ vô lượng kiếp đến nay,
chẳng biết có bao nhiêu chư Phật Như Lai trong quá
khứ đều là học tṛ hay tín đồ của
Địa Tạng Bồ Tát, quư vị thấy họ
đều thành Phật cả rồi, mà Địa
Tạng vẫn thuộc địa vị Bồ Tát,
vẫn ở trong thế giới khổ nạn ḥng giúp
đỡ hết thảy chúng sanh.
Địa Tạng tượng
trưng cho “hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng
thầy”, hai câu trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ
mẫu, phụng sự sư trưởng” là cội
rễ của hết thảy điều lành thế gian và
xuất thế gian, Bồ Tát đại diện cho pháp môn
này. V́ vậy, chúng ta trông thấy tượng Bồ Tát,
nghe danh hiệu Bồ Tát, phải nghĩ tới “hiếu thân, tôn sư”
(hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy).
Nếu kẻ nào bất hiếu với cha mẹ, bất
kính sư trưởng, khỏi cần phải nói nữa, dẫu
là kẻ tu hành tốt đẹp đến mấy vẫn
là giả, chẳng thật, v́ sao? Kẻ ấy trái
nghịch Tánh Đức. Do vậy, tại Trung Quốc vào
thời cổ, quốc gia tuyển lựa nhân tài, quá
nửa là những người ấy sẽ
được trao quyền cai trị, điều kiện
tiên quyết là phải hiếu thảo. Người ấy
có thể hiếu thảo với cha mẹ, nhất
định sẽ có thể yêu dân, trung với nước
nhà, yêu mến, bảo vệ nhân dân. Điều kiện
thứ hai là liêm khiết. [Gọi gộp chung hai
điều ấy là] hiếu liêm, liêm sẽ không tham ô.
Từ thời Hán Vũ Đế định ra quy chế
ấy, “cử hiếu liêm”,
“cử” (舉) là tuyển cử, nơi nào có trẻ
nhỏ là đứa con hiếu thảo, liêm khiết, quan
viên nơi ấy phải chăm sóc nó cẩn thận.
Thật vậy, quả nhiên là khá lắm, sẽ tuyển
lựa nó, quốc gia vun bồi nó. Chế độ ấy
vẫn được thực hành măi cho đến khi chánh
quyền Măn Thanh vong quốc. Chỉ sau khi nhà Măn Thanh
sụp đổ, Dân Quốc thành lập, chế
độ ấy mới chẳng c̣n nữa! Chế
độ ấy hay lắm. Quư vị thấy bao nhiêu
triều đại thay đổi, nhưng chế độ
như vậy vĩnh viễn được ǵn giữ,
chẳng có triều đại nào không coi trọng vấn
đề này, không triều đại nào dám phế bỏ
chế độ ấy. V́ vậy, đây là một chế
độ rất tốt đẹp!
Hiền Kiếp, một ngàn
vị Phật xuất hiện trong thế gian này. “Bi Hoa Kinh ngũ viết” (kinh
Bi Hoa, quyển thứ năm nói), “ngũ” là quyển thứ năm, trong quyển
ấy có một đoạn như thế này: “Thử Phật thế giới”
(thế giới của vị Phật này), chữ “Phật” ở đây chỉ
Thích Ca Mâu Ni Phật, nay đang trụ trong thế giới
này, “đương danh Sa Bà,
thời hữu đại kiếp, danh viết Hiền
Thiện. Thị đại kiếp trung, hữu thiên
Thế Tôn, thành tựu đại bi, xuất hiện ư
thế” (sẽ có tên là Sa Bà, khi ấy có đại
kiếp tên là Hiền Thiện. Trong đại kiếp
ấy, có một ngàn vị Thế Tôn thành tựu
đại bi, xuất hiện trong cơi đời), có
một đoạn như thế. Nói rơ Thích Ca Mâu Ni
Phật, Di Lặc Bồ Tát trong tương lai xuất
hiện trong thế gian này, thế giới này cũng
gọi là Sa Bà, đại kiếp ấy gọi là Hiền
Kiếp hoặc Hiền Thiện. Sa Bà là tên gọi của
thế giới, Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh trong
thế gian này, chúng tôi giới thiệu đơn giản
danh từ này đôi chút[1].
“Giới danh, hựu tác Sa Ha, Sa
Ha Lâu Đà” (tên của thế giới, c̣n gọi là Sa Ha, hoặc Sa Ha Lâu Đà),
đều là tiếng Phạn, dịch âm khác nhau đôi
chút, nhưng âm đọc đại khái vẫn là
tương tự. “Tân dịch
vi Sách Ha” (Tân dịch là Sách Ha), ở đây, Tân và Cựu
lấy Huyền Trang đại sư để phân chia
giới tuyến. Phiên dịch trước thời
Huyền Trang đại sư là Cựu Dịch, những
danh xưng nói trong phần trước đều là
Cựu Dịch. Huyền Trang đại sư
dịch thành Sách Ha, tương đối gần âm
tiếng Phạn hơn, đó là Tân Dịch. Chúng ta học
kinh giáo, do trước kia Huyền Trang đại sư
phiên dịch kinh không ít, cho nên chúng ta phải nên hiểu
đôi chút về ư nghĩa của Cựu Dịch và Tân
Dịch để chẳng đến nỗi nẩy sanh
hiểu lầm. Sa Bà nghĩa là ǵ? “Kham nhẫn chi nghĩa, nhân nhi dịch viết
Nhẫn Độ” (nghĩa là có thể chịu
đựng, do vậy, [Sa Bà] c̣n được dịch là
Nhẫn Độ, tức cơi chịu đựng). Kham
Nhẫn là quư vị thật sự có thể chịu
đựng. Thế giới này rất
khổ, cư dân ở nơi đây có thể chịu
đựng; v́ thế, gọi là Sách Ha. Do đó, c̣n dịch
là Nhẫn Độ, Độ là cơi đất này.
[Nhẫn Độ nghĩa là] chúng sanh trong cơi này thật
sự có thể chịu đựng nhiều nỗi
khổ nạn; khổ nạn do đâu mà có? Chúng ta
biết, trong kinh Hoa Nghiêm đă giảng rất rơ ràng,
khổ nạn là do chúng ta mê hoặc tự tánh, tùy thuận
tập tánh, tập tánh bất thiện, tạo tác
đủ thứ nghiệp bất thiện, nên cảm
quả báo. Nhân quả báo ứng rất hiện thực,
khắp nơi đều là nó, bất cứ lúc nào cũng
đều phát sanh, chỉ cần chúng ta lắng ḷng chú tâm
quan sát, sẽ biết chuyện này chẳng tơ hào sai
chạy, thiện có thiện quả, ác có ác báo.
V́ sao nơi A Di Đà Phật
trụ được gọi là thế giới Cực
Lạc, c̣n thế giới của chúng ta gọi là thế
giới Sa Bà? Cực Lạc và Sa Bà có ǵ khác biệt? Nói
thật thà, hai thế giới b́nh đẳng, chẳng có
mảy may sai biệt nào. Nhưng trong kinh Văng Sanh, Thích Ca Mâu
Ni Phật đă giới thiệu thế giới Cực
Lạc, thế giới ấy thật tốt đẹp,
chẳng nghe nói thế giới Cực Lạc có kẻ
bất thiện, chẳng nghe nói thế giới Cực
Lạc có ngôn hạnh bất thiện, cũng chẳng nghe
nói thế giới Cực Lạc có tai nạn ǵ! Thủy tai,
phong tai, động đất, chưa hề nghe nói! Do
nguyên nhân ǵ? Đức Phật cũng từ bi nói rơ
với chúng ta: Thế giới ấy toàn là các vị
thượng thiện nhân sống cùng một chỗ. Chúng
ta bèn hiểu rơ: Thế giới Cực Lạc là một
thế giới mới, giống như một khu vực
mới trong thế gian này, vừa mới thành lập;
thế giới Sa Bà là một khu rất cổ lỗ,
đời đời kiếp kiếp chất chứa
những nghiệp chướng tập khí chưa
đoạn. Một khu vực mới được thành
lập, trong ấy có cư dân hay không? Không có, khu vực
mới không có cư dân cũ, [cư dân trong Tây Phương
Cực Lạc] đều do A Di Đà Phật dùng bổn
nguyện và oai thần tiếp dẫn người trong
mười phương thế giới sanh về thế
giới Cực Lạc; bởi lẽ, nó là một khu
vực mới.
Đến chỗ Ngài phải
thỏa một điều kiện, điều kiện ǵ
vậy? Điều kiện là Thập Thiện. A Di Đà
Phật bảo chúng ta [cư dân trong cơi Cực Lạc]
đều là thượng thiện nhân ở cùng một
chỗ, chúng ta muốn đến đó, ắt phải tu
thượng phẩm Thập Thiện mới có thể văng
sanh. Mỗi ngày niệm Phật, niệm rất khá, mỗi
ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, lâm chung
có thể văng sanh hay không? Tùy thuộc cái tâm của quư
vị là thiện hay bất thiện. Muốn xem ḷng
của quư vị mà thiện bất thiện. Mười
vạn câu chẳng sai, có công phu, nếu quư vị tu
Thập Thiện, thượng phẩm Thập Thiện,
ngay lập tức phê chuẩn, có thể di dân sang thế
giới Cực Lạc. Mỗi ngày mười vạn câu
Phật hiệu, tâm địa bất thiện, vẫn c̣n
tham, sân, si, mạn, c̣n có tự tư tự lợi, kẻ
ấy chẳng thể văng sanh. V́ sao? Công phu niệm
Phật trọn đủ, đạt tiêu chuẩn, cho
năm mươi điểm, nhưng các mặt khác không
đủ điểm số, chẳng thể văng sanh! Do
vậy, phải ghi nhớ, thượng phẩm Thập
Thiện! Phải thật sự làm, chẳng thật
sự làm sẽ không được! Hiện thời, tu
thượng phẩm Thập Thiện như thế nào?
Mấy năm qua, chúng tôi đặc biệt đề
xướng ba căn bản của Nho, Thích, Đạo,
đó là thượng phẩm Thập Thiện. Do vậy,
chớ nên sơ sót! Đệ Tử Quy hoàn toàn chẳng
thực hiện sẽ không thể về thế giới
Cực Lạc, Cảm Ứng Thiên không thực hiện
chẳng đến thế giới Cực Lạc. Hai
thứ Cảm Ứng Thiên và Đệ Tử Quy
đều thực hiện sẽ chẳng khác
thượng phẩm Thập Thiện cho mấy, tôi tin
[người ấy] chắc chắn có thể làm
được [thượng phẩm Thập Thiện].
Chớ nên chẳng chú ư những lời đức Phật
đă dạy trong kinh, chớ nên coi thường, nhất
định phải hiểu rất rơ ràng, rất minh
bạch, trong một đời này chúng ta hội đủ
điều kiện của Tây Phương Cực Lạc
thế giới, sẽ ổn thỏa, thích đáng
đến được thế giới Cực Lạc.
Điều này có cùng một đạo lư với việc di
dân trong hiện thời, chúng ta hội đủ
điều kiện sẽ có thể di dân sang thế
giới Cực Lạc.
Tu hành trong thế gian này vô cùng
khó khăn, khó khăn lớn nhất là thọ mạng quá
ngắn, tức là nói thời gian chúng ta tu học không
đủ, c̣n chưa thành công, thọ mạng đă hết
rồi. Đời sau sanh làm người, được
tiếp tục mang thân người, tối thiểu bị
gián đoạn hai mươi năm. Trong hai mươi
năm chết sống ấy, gần như quên sạch
sành sanh những thứ đă tu trong đời
trước. Đời này tiếp tục tu bèn nhanh hơn
một chút, vẫn chẳng bằng thọ mạng lâu dài
ḥng có thể viên măn thành tựu trong một đời.
Đến thế giới Cực Lạc, chuyện ấy
sẽ được giải quyết. Người sanh
về thế giới Cực Lạc sẽ giống như
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật vô lượng thọ,
nên ai nấy trong thế giới Cực Lạc đều
là vô lượng thọ. V́ vậy, gọi là “thành tựu viên măn trong một
đời” v́ họ có thời gian. Dựa vào
điều này, chúng ta thật sự hiểu minh bạch,
rơ ràng: Chẳng thể không văng sanh! Đức Phật
dạy chúng ta, những ǵ trong thế gian này chẳng
thể đem sang thế giới Cực Lạc, hăy buông
xuống toàn bộ; những ǵ có thể đem sang thế
giới Cực Lạc, hăy khéo học tập, tu hành.
Chớ nên không biết những ǵ có thể mang theo.
Những ǵ sẽ mang theo được? Giới,
Định, Huệ mang theo được, Thiền
Định, Bát Nhă mang theo được, đoạn ác tu
thiện, tích công lũy đức mang theo được. Tự
tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần trong thế gian chẳng mang
theo được. Chẳng mang theo được th́
phải thật sự buông xuống, chẳng có tơ hào
lưu luyến; đối với những ǵ mang theo
được bèn nghiêm túc học tập.
Học Phật, mục tiêu chung
cực là mong cầu minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật, đúng là trở về tự tánh. Chỉ cần
chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chắc chắn sẽ thành tựu viên măn trong
một đời. V́ sao gọi là
một đời? Văng sanh thế giới Cực Lạc là
một đời. Phải biết: Văng sanh là văng sanh ngay
trong lúc c̣n sống, chẳng phải là chết rồi
mới văng sanh. Chư vị đồng học nhất
định phải hiểu rơ điều này! V́ thế,
văng sanh là bất tử, A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn quư vị, quư vị c̣n chưa tắt
hơi, vẫn là người sống. Quư vị thấy
Phật đến tiếp dẫn, theo Phật ra đi, giă
biệt người nhà, chào từ biệt họ rồi ra
đi. Thân thể chẳng cần đến nữa,
bỏ đi, chẳng mang theo thân thể, đấy là
thứ rất bẩn thỉu, thế giới Cực
Lạc là thế giới thanh tịnh, chẳng có thứ ǵ
bẩn thỉu. Thân là cội nguồn của hết
thảy ô nhiễm, cần phải vứt bỏ nó. Do
vậy, đến thế giới Cực Lạc là ra
đi trong khi c̣n sống, chẳng chết, ra đi
trong lúc sống. Đến thế giới Cực Lạc,
nơi đó là hóa sanh, chẳng phải là thai sanh. Thế giới Cực Lạc là hóa sanh, nên chẳng
có nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử. Đă thế,
đức Phật giới thiệu thể chất
[của người trong cơi Cực Lạc] là “tử ma chân kim sắc thân”
(thân có như vàng ṛng màu tía được trau giồi
sáng bóng), thân Kim Cang bất hoại, đều là từ
tự tánh lưu lộ, giống như Phật, thân
Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng
có vô lượng hảo. Nếu quư vị thật sự
thấy, thật sự hiểu rơ, đă hiểu rơ th́ quư
vị c̣n chẳng văng sanh ư? Quư vị c̣n có ǵ để
lưu luyến trong thế gian này? Mảy may lưu
luyến đều chẳng có, nhất tâm hướng về. Trong Di Đà Kinh Yếu
Giải, Ngẫu Ích đại sư nói ư niệm “nhất tâm
hướng về” chính là phát Vô Thượng Bồ
Đề tâm, giảng rất tuyệt! Nói cách khác, quư
vị đă hoàn toàn hội đủ điều kiện
văng sanh. Do vậy, so sánh giữa hai thế giới, chúng ta
rất coi trọng điều này.
“Pháp Hoa Văn Cú nhị viết” (Sách Pháp Hoa Văn
Cú, quyển hai, chép) Pháp Hoa Văn Cú là tác phẩm chú
giải [kinh Pháp Hoa] do Trí Giả đại sư soạn.
Trong ấy có giải thích chữ Sa Bà: “Sa Bà thử phiên Nhẫn, kỳ độ chúng sanh an
ư thập ác, bất khẳng xuất ly” (Sa Bà, cơi này dịch là Nhẫn. Chúng sanh
trong cơi ấy an trụ trong Thập Ác, chẳng chịu
xuất ly). Đây là hoàn cảnh hiện tại của
chúng ta. “Tùng nhân danh độ,
cố xưng vi Nhẫn” (do con người mà
đặt tên cơi nước; v́ thế gọi là Nhẫn).
Thật vậy, người trên thế giới này, đúng
là an trụ trong Thập Ác, tức mười ác nghiệp:
Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi
chiều, nói thêu dệt, ác khẩu, tham lam, nóng giận, ngu
si, quư vị thấy đó, mười điều ấy
đều là tội nghiệp. Tạo tác mười
loại nghiệp ấy, quả báo là trong tam đồ,
tức ngạ quỷ, địa ngục, và súc sanh,
quả báo ở nơi ấy, chẳng chịu xuất ly,
lắm nỗi khổ sở! V́ họ (chúng sanh trong thế
giới của chúng ta) có thể chịu đựng
[những nỗi khổ sở ấy], nên trong tiếng
Phạn bèn gọi [thế giới này] là Sa Bà. “Bi Hoa kinh vân: Vân hà danh Sa Bà?
Thị chư chúng sanh nhẫn thọ Tam Độc cập
chư phiền năo, cố danh Nhẫn Độ, diệc
danh Tạp Hội, cửu đạo cộng cư cố”
(Kinh Bi Hoa nói: “Cớ sao tên là Sa Bà? Các chúng sanh ấy
chịu đựng Tam Độc và các phiền năo, nên
gọi là Nhẫn Độ, c̣n gọi là Tạp Hội,
[là chỗ để chúng sanh] thuộc chín đường
cùng ở”). Trong thế gian này, Tạp Hội là tạp
cư (ở lẫn lộn), tố chất của nhân dân
rất phức tạp. [Kinh Bi Hoa] cũng nói các chúng sanh trong
cơi ấy có thể chịu đựng tham, sân, si, mạn;
tham, sân, si là Tam Độc, “cập
chư phiền năo” (và các phiền năo), phiền năo
nặng nhất là ngạo mạn và hoài nghi. Sự hoài nghi
ấy chẳng tầm thường, mà là hoài nghi giáo
huấn của thánh hiền. Hiện thời, chúng ta c̣n
phải thêm một câu, “hoài nghi truyền thống của
tổ tiên”, những thứ đó đều là phiền
năo. V́ thế được gọi là Nhẫn Độ. Ư
nghĩa Tạp Hội được câu tiếp theo nói
rất rơ ràng: “Cửu
đạo cộng cư” (chín đường cùng
ở). Cớ sao có chín đường? Thông thường
chúng ta chỉ nói sáu đường, nếu tách ra thành chín
đường th́ cũng có thể nói thông suốt. Trong
thiên đạo có Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên,
và Vô Sắc Giới Thiên, đó là ba đường,
một biến thành ba. Trong địa ngục có Vô Gián
địa ngục, có tám địa ngục lạnh, tám địa
ngục nóng; do vậy, một cũng biến thành ba. V́
lẽ đó, đúng là vô cùng phức tạp, v́ sống
trong thế gian này, trong thế giới này, ai nấy tâm
đều bất thiện, tạo nghiệp khác nhau,
quả báo cũng chẳng giống nhau. Đoạn này
nhằm giải thích v́ sao thế giới này gọi là Sa Bà
Tiếp đó, trong “Pháp Hoa Huyền Tán”[2]
nói “Phạn vân Sách Ha, thử
vân Kham Nhẫn, chư Bồ Tát đẳng hành lợi
lạc thời, đa chư oán tật chúng khổ bức
năo, kham nại lao quyện nhi nhẫn thọ cố, nhân
dĩ vi danh. Sa Bà giả, ngoa dă” (tiếng Phạn là Sách
Ha, cơi này dịch là Kham Nhẫn. Khi các vị như Bồ
Tát v.v... hành lợi lạc, bị nhiều sự oán ghét,
các thứ khổ sở bức bách, năo hại, nhưng các
Ngài có thể chịu đựng nhọc nhằn, mệt
mỏi, kiên nhẫn hứng chịu. V́ thế, lấy
đó làm tên [của thế giới. Phiên âm thành] Sa Bà là sai).
Ư nghĩa này khác với phần trước, trong phần
trước nói về chúng sanh cư trụ, tức cư
dân trong thế giới này, họ có thể chịu
đựng những khổ nạn trong thế gian, đó
gọi là “tự làm, tự chịu”. Trong Pháp Hoa Huyền
Nghĩa[3]
nói đến chư Phật, Bồ Tát, chúng sanh trong
thế gian này tuy khổ, nhưng họ có cảm, có
người mong cầu Phật, Bồ Tát, trong khi chịu
khổ, chịu nạn, họ cầu Phật, Bồ Tát
gia hộ, cầu Phật, Bồ Tát đến cứu chúng
con. Chúng sanh dấy lên ư niệm ấy, Phật, Bồ Tát
lập tức nhận được tin tức ấy, các
Ngài có đến hay không? Đến chứ! Các Ngài đến
giúp đỡ chúng ta, nên dùng thân ǵ để độ bèn
hiện thân ấy. Các Ngài đến nơi đây
để độ bọn chúng sanh chúng ta, trạng
huống như thế nào? [Các Ngài] chịu khổ giống
như chúng ta, có thể c̣n chịu khổ nhiều hơn
chúng ta, có nghĩa là Phật, Bồ Tát ứng hóa trong
thế gian để độ chúng sanh rất khổ,
chẳng dễ độ! Nói tới ư nghĩa này. Quư
vị thấy [sách Pháp Hoa Huyền Tán viết] “chư Bồ Tát đẳng”,
chữ “đẳng” ấy
nghĩa là ǵ? Có A La Hán, Bích Chi Phật, c̣n có chư thiên,
chư thiên từ bi cũng đến thế gian giúp
đỡ chúng sanh khổ nạn, họ đến “hành lợi lạc thời”
(khi hành lợi lạc), lợi lạc chúng sanh, đến
giúp chúng sanh, đến cứu khổ cứu nạn,
nhưng như thế nào? “Đa
chư oán tật chúng khổ bức năo”, [nghĩa là]
Bồ Tát đến đây hảo tâm cứu giúp chúng sanh,
nhưng vẫn có rất nhiều kẻ oán giận, ganh
ghét các Ngài, c̣n có rất nhiều kẻ gây cho các Ngài đủ
mọi nỗi phiền năo. Hiện thời, hiện
tượng này được thấy rất rơ rệt:
Người tin tưởng cầu Phật, Bồ Tát,
kẻ không tin bèn nhục mạ người ấy là mê tín,
nghĩ hết mọi cách để bài xích, chướng
ngại người ấy. Độ chúng sanh rất
khổ, nhưng những vị Bồ Tát ấy có thể
nhẫn nại. “Kham nại lao
quyện” (chịu đựng mệt mỏi, nhọc
nhằn), đó là vất vả, khổ sở, “nhi nhẫn thọ cố”
(kiên nhẫn hứng chịu). Ở đây, Bồ Tát tu
Nhẫn Nhục Ba La Mật, thứ ǵ cũng đều
nhẫn nại, “nhân dĩ vi
danh” (do vậy, bèn lấy đó làm tên). Quư vị
thấy đó, cư dân khổ sở, Phật, Bồ Tát
đến nơi đây độ chúng sanh cũng khổ,
nên gọi là thế giới Kham Nhẫn; do vậy, lấy
đó làm tên. “Sa Bà giả, ngoa
dă” ([phiên âm thành] Sa Bà là sai): Sa Bà là phiên âm thời cổ,
phải nên phiên là Sách Ha, âm này (tức Sa Bà) so với nguyên
âm khác biệt nhiều hơn[4].
“Tây Vực Kư nhất viết”
(Tây Vực Kư quyển một viết), Tây Vực Kư do
Huyền Trang đại sư viết, Ngài sang Ấn
Độ thỉnh kinh mười mấy năm, có
viết một quyển sách ghi lại những chuyện
thấy nghe trên đường đi, mang tựa
đề là Tây Vực Kư. “Sách
Ha thế giới tam thiên đại thiên quốc
độ, vi nhất Phật hóa nhiếp dă” (thế
giới Sách Ha là cơi nước tam thiên đại thiên, là
nơi hóa độ, nhiếp thọ của một vị
Phật), đây là nói về Thích Ca Mâu Ni Phật, [nói
về] khu vực giáo hóa của một vị Phật. “Cựu viết Sa Bà” (lối
xưa, phiên âm là Sa Bà), “hựu
viết Sa Ha, giai ngoa” (lại c̣n dịch là Sa Ha,
đều sai). Những âm này đều không chính xác, nên
Ngài phiên là Sách Ha. Đây là thuyết minh đơn giản
câu “đương danh Sa Bà”
(nên đặt tên là Sa Bà).
“Thời
hữu đại kiếp” (khi ấy, có đại
kiếp), “thời” là lúc
hiện tại, trong khoảng thời gian ấy,
đại kiếp có tên là Hiền Kiếp, “danh viết Hiền Thiện” (tên là Hiền
Thiện); trong đại kiếp ấy, “hữu thiên Thế Tôn, thành tựu đại bi
xuất hiện ư thế” (có một ngàn vị
Thế Tôn, thành tựu đại bi, xuất hiện trong
cơi đời), “thành tựu
đại bi” là đặc biệt nói rơ các vị
Bồ Tát thị hiện thành Phật trong thế giới
này nhằm giáo hóa chúng sanh, mang ư nghĩa này. “Cứ Phật Tổ Thống Kư” (Theo Phật
Tổ Thống Kư), Phật Tổ Thống Kư[5]
là một quyển sách trong Phật môn, có thể nói là sách
lịch sử nhà Phật, có chép danh hiệu của mấy
vị Phật, “đệ
nhất Phật danh Câu Lưu Tôn Phật, thứ vi Câu Na Hàm
Mâu Ni Phật, tam vi Ca Diếp Phật” (vị Phật
thứ nhất tên là Câu Lưu Tôn Phật, vị kế
đó là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, vị Phật thứ ba là Ca
Diếp Phật), vị thứ tư là hiện tại, “tức vi kim chi Thích Ca Mâu Ni
Phật, thử hậu hữu Di Lặc” (tức là Thích
Ca Mâu Ni Phật trong hiện thời, sau đấy có ngài Di
Lặc), đây là vị Phật thứ năm. Sau đó là
chữ “đẳng” (vân
vân), sau đấy c̣n có “cửu
bách cửu thập lục Phật tương kế
xuất thế” (chín trăm chín mươi sáu vị
Phật kế tiếp nhau xuất thế). Đây là
giới thiệu giản lược một ngàn vị
Phật trong Hiền Kiếp lần lượt xuất
hiện trên thế gian trong đại kiếp này. “Kim thử hội trung, Di Lặc
dữ kỳ tha Hiền Kiếp trung thành Phật chi
cửu bách cửu thập ngũ đại sĩ giai lai
tập hội” (nay trong hội này, Di Lặc và chín
trăm chín mươi lăm vị đại sĩ sẽ
thành Phật trong Hiền Kiếp đều đến nhóm
hội). Thích Ca Mâu Ni Phật ngự tại Linh Sơn, kinh
này được nói tại Linh Sơn, cùng địa
điểm với kinh Pháp Hoa, giảng kinh ở nơi
ấy. Di Lặc Bồ Tát và chín trăm chín mươi
lăm vị đại Bồ Tát sẽ thành Phật trong
thế gian này vào thời tương lai của Hiền
Kiếp đều đến tham gia pháp hội này. “Thính Phật thuyết pháp,
cố tri Hiền Kiếp trung vị lai nhất thiết
chư Phật giai tất đồng tuyên thử kinh”
(nghe đức Phật thuyết pháp, nên biết hết
thảy chư Phật vị lai trong Hiền Kiếp
ắt sẽ đều cùng tuyên nói kinh này). Cụ Niệm
Tổ có cách nh́n như thế, lư giải như thế,
chúng ta thấy một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp
đều đến tham dự pháp hội này, trong
tương lai các Ngài thành Phật, lẽ nào chẳng
giảng kinh này? Lẽ nào chẳng tuyên dương pháp môn
này?
Tiếp theo đó, cụ
Niệm Tổ thuyết minh đơn giản: “Biệt thuyết, Hiền
Kiếp cộng nhất thiên linh ngũ Phật”
(Thuyết khác cho rằng trong Hiền Kiếp có một ngàn
lẻ năm vị Phật), tức là không kể Di
Lặc Bồ Tát, đấy là một cách nói khác. Sau Di
Lặc Bồ Tát c̣n có một ngàn vị Phật xuất
thế, đó là [ư nghĩa của câu] “Di Lặc dĩ hạ nhất thiên linh nhất nhân”
(từ Di Lặc trở đi là một ngàn lẻ một
người), hiện thời chưa thành Phật, c̣n
đang mang thân phận Bồ Tát. “Phi sở thường kiến, cố bất
tường lục” (do chẳng thường thấy
nên chẳng sao lục chi tiết), chẳng rườm
lời, tỉnh lược [phần nêu danh hiệu cụ
thể của các vị Phật trong Hiền Kiếp]. “Dĩ thượng đệ
nhất phẩm, dĩ Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ,
Chúng, lục chủng thành tựu, vi bổn kinh chứng
tín. Kinh trung đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên
nhân, siêu việt dư kinh, đồng ư Pháp Hoa” (Trong
phẩm thứ nhất, dùng Tín, Văn,
Thời, Chủ, Xứ, Chúng, sáu thứ
thành tựu để chứng tín kinh này. Giống như
kinh Pháp Hoa, chúng đại tỳ-kheo trong kinh này là một
vạn hai ngàn vị, trỗi vượt các kinh khác). Chúng
ta đặc biệt lưu ư sự biểu thị pháp này,
nói rơ tầm quan trọng của kinh này. Quư vị thấy
đức Phật nói hết thảy các kinh, thông
thường số lượng các vị tỳ-kheo
đều là một ngàn hai trăm năm mươi
người, chỉ riêng kinh Pháp Hoa là một vạn hai ngàn
người, kinh này cũng là một vạn hai ngàn
người, cho thấy pháp hội này và Pháp Hoa b́nh
đẳng. Trong quá khứ, tổ sư đại
đức bảo: Hết thảy các pháp do đức
Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín năm có
thể chia thành ba loại là Tiểu Thừa, Đại
Thừa, và Nhất Thừa, chia thành ba loại ấy.
Tiểu Thừa giảng về Thanh Văn và Duyên Giác, nói
theo cách bây giờ là học hành đă đạt
được học vị, Đại Thừa là Bồ
Tát, Nhất Thừa là thành Phật. Đối với “kinh
thành Phật” (kinh dạy pháp môn tu thành Phật), các vị
tổ sư đại đức từ xưa đă
khẳng định kinh thành Phật chỉ có ba bộ,
tức là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng
chưa được truyền toàn bộ đến Trung
Quốc, chỉ có một phẩm được truyền
đến Trung Quốc, đó là Bồ Tát Giới Phẩm,
tức là phẩm Bồ Tát Tâm Địa Giới trong
bộ kinh ấy. Bộ kinh đó phân lượng cũng
rất lớn, nhưng chưa được truyền
tới. Tại Trung Quốc chỉ có Hoa Nghiêm và Pháp Hoa,
nhưng tổ sư đại đức phán định
kinh này cao hơn Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, v́ sao? Hoa Nghiêm và Pháp Hoa
đến cuối cùng đều là “mười
đại nguyện vương dẫn về Cực
Lạc”. Nói cách này hợp lư, mà nói theo Lư cũng thông
suốt. Nói cách khác, Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là kinh Nhất Thừa,
thành Phật trong một đời, [cho nên] kinh này cũng là
thành Phật trong một đời.
Sau đó lại nói: “Hựu Phổ Hiền tối vi
thượng thủ, đồng ư Hoa Nghiêm kinh, diệc
biểu bổn kinh chi đồng ư thượng chi Viên
Giáo nhị kinh dă” (Hơn nữa,
giống như kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát là
vị Thượng Thủ đầu tiên của kinh này,
điều này cũng biểu thị kinh này giống
như hai kinh Viên Giáo vừa được nhắc
đến trên đây). Đây là hai bộ kinh Nhất
Thừa trong Viên Giáo, kinh này (kinh Vô Lượng
Thọ) ngang hàng với hai kinh đó, chẳng sai biệt!
V́ vậy, vào đời Thanh trước kia, cư sĩ
Bành Tế Thanh đă gọi kinh này là Trung Bổn Hoa Nghiêm,
kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm, quư vị thấy
có ư nghĩa như vậy. Chúng ta phải đặc
biệt lưu ư những đề xướng, chỉ
dạy của các vị tổ sư đại
đức. Trong toàn bộ Phật giáo, trong bốn
mươi chín năm hoằng truyền của Thích Ca Mâu Ni
Phật, bộ kinh này chiếm địa vị ra sao? Có
thể nói bộ kinh này là chí cao vô thượng! Không
chỉ ngang hàng với Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, trên thực
tế, nó c̣n cao hơn Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Kinh Hoa Nghiêm
đến cuối cùng viên măn là mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát
dẫn về Cực Lạc, thật sự đạt tới
viên măn rốt ráo, chúng ta chớ nên chẳng biết
điều này. Nếu chúng ta nương theo Pháp Hoa và Hoa
Nghiêm để tu hành, hy vọng thành công trong một
đời này hết sức xa vời, mờ mịt. Các
pháp môn ấy phải tu Định, Pháp Hoa tam-muội
chẳng dễ thành tựu, Pháp Giới Quán như trong kinh
Hoa Nghiêm người tầm thường chẳng thể
quán thành. Quư vị thấy phương pháp trong bộ kinh
điển này, trong bốn mươi tám nguyện có nói
“khi lâm chung, mười niệm nhất định văng sanh”.
Do vậy, Thiện Đạo đại sư tán thán pháp
môn này là “vạn người
tu, vạn người đến”, chẳng bỏ sót
một ai! Chúng ta đă gặp gỡ, may mắn lắm!
Dẫu trong đời này, chúng ta học Phật cũng
thế, mà không học Phật cũng thế, trong quá
khứ và đời này đă tạo chẳng ít tội
nghiệp, có thể văng sanh hay không? Có thể! Chỉ
cần quư vị sau khi nghe pháp môn này, hạ quyết tâm
“quay đầu là bờ”, ta chẳng c̣n làm ác nữa, ta
thật sự nhất tâm tu học Thập Thiện,
thật thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ,
là được rồi. Quá khứ tạo tác tội
Thập Ác, Ngũ Nghịch cũng được, vẫn
có thể văng sanh, tuyệt diệu chưa? Đúng là quay
đầu là bờ! Chúng ta chớ nên không biết
điều này, nhất định phải quư trọng
duyên phận thù thắng khôn sánh này.
Chúng ta học phẩm thứ
nhất tới đây, dưới đây, chúng ta xem
phẩm thứ hai là Đức Tuân Phổ Hiền.
Chúng ta thấy trước đó cụ Hoàng Niệm Tổ
mào đầu: “Đệ
nhị phẩm thị thượng phẩm thánh chúng chi
bổ sung” (phẩm thứ hai là phần nói chi tiết
thêm về thánh chúng trong phẩm trước). Chúng Thành
Tựu trong sáu thứ thành tựu chỉ nói đến
xuất gia Bồ Tát, tại gia Bồ Tát chưa nhắc
tới, phải nói bổ sung trong phần kế tiếp. “Bổn phẩm chi thủ, ư
Bồ Tát chúng trung, niêm xuất thượng thủ chi
Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ”
(đầu phẩm này, trong hàng Bồ
Tát, lại nêu lên mười sáu vị Chánh Sĩ
thượng thủ như Hiền Hộ v.v...), mười sáu vị
đại Bồ Tát ấy đều là Đẳng Giác
Bồ Tát, toàn là tại gia Bồ Tát. “Phẩm mạt” (phẩm cuối cùng), tức
cuối phẩm bốn mươi tám, “phục tiêu dư chi tam chúng cập chư thiên
đại chúng, dĩ bổ túc thượng phẩm” (lại nêu ba chúng kia và chư thiên đại
chúng nhằm bổ túc phẩm đầu), tức phẩm
trước của phẩm này, “lục thành tựu trung chi Chúng Thành Tựu” (Chúng
Thành Tựu trong sáu thứ thành tựu), nói rơ ở đây. “Vưu ưng trước nhăn”
(càng đáng chú ư nhất), tức là phải lưu ư, “bổn phẩm danh Đức
Tuân Phổ Hiền” (phẩm này có tên là Đức Tuân
Phổ Hiền), ư nghĩa của tiểu đề này vô
cùng trọng yếu, “cái
biểu dự hội chi vô lượng
vô biên chư đại Bồ Tát, hàm cộng tuân tu Phổ
Hiền chi đức” (biểu
thị vô lượng vô biên chư đại Bồ Tát
dự hội đều cùng tuân tu đức của
Phổ Hiền). Quư vị nói xem kinh này có tuyệt
vời hay chăng? “Đều cùng tuân tu đức của
Phổ Hiền” là ở nơi đâu? Trong kinh Hoa Nghiêm,
tức là trong Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, chư Phật, Bồ Tát vị nào cũng đều
tu “Phổ Hiền chi
đức”, “Phổ
Hiền chi đức” là mười đại
nguyện vương, thành tựu viên măn trong một
đời. Kinh này chẳng ra ngoài lệ ấy. “Phổ Hiền chi đức,
thật diệc vô lượng” (đức của
Phổ Hiền thật sự cũng là vô lượng), nói
thật với quư vị th́ là vô lượng vô biên, “nhi kỳ tâm trung chi tâm, yếu
trung chi yếu, tắc vi thập đại nguyện
vương đạo quy Cực Lạc dă, thị vi
bổn phẩm chi cương” (nhưng
điểm cốt lơi, trọng yếu nhất lại chính
là “mười đại nguyện vương dẫn
dắt về Cực Lạc”. Đó là cương lănh của
phẩm này). Tổng cương lănh của phẩm
kinh này là mười đại nguyện vương
của Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền nguyện,
Phổ Hiền đức thật sự là vô lượng,
vô biên, vô tận, vô số. Cụ Hoàng nói rất hay, “tâm yếu”: “Tâm trung chi tâm, yếu trung chi yếu” (điều
cốt lơi nhất trong các điều cốt lơi,
điều trọng yếu trong các điều trọng
yếu) chính là mười đại nguyện
vương. Do vậy, chúng ta phải học mười
đại nguyện vương, có thể học bao nhiêu
bèn học bấy nhiêu, đối với chính ḿnh chắc
chắn có lợi ích.
Đầu tiên là phải
học “lễ kính chư
Phật”, đối với bất cứ ai đều
phải lễ kính. V́ sao? Hết thảy chúng sanh là vị
lai Phật, há có thể chẳng lễ kính ư? Chúng ta
lạy Phật, phải lạy ba đời mười
phương chư Phật, ba đời là đời quá
khứ, đời hiện tại, trong kinh, Thích Ca Mâu Ni
Phật đă giới thiệu, đời vị lai,
đức Phật đă nói “hết
thảy chúng sanh đều là vị lai Phật”. Chúng ta
chẳng cung kính một người hay chẳng cung kính
một động vật nhỏ chính là chẳng cung kính
vị lai Phật. Từ chỗ này, có thể thấy
được đại đức và đại
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Không chỉ là
đối với hết thảy hữu t́nh chúng sanh, chúng
ta phải có ư niệm kính trọng chân thành, phải lễ
kính viên măn, trong kinh Hoa Nghiêm đức
Phật c̣n dạy: “T́nh và vô
t́nh, cùng viên thành Chủng Trí”. Chúng ta chỉ nói
động vật là hữu t́nh, c̣n vô t́nh th́ sao? Thực
vật, khoáng vật, núi, sông, đại địa là
vô t́nh. Vô t́nh chúng sanh cùng viên thành Chủng Trí, câu này
chẳng thể nghĩ bàn, cũng có nghĩa là vô t́nh chúng
sanh cũng sẽ thành Phật. Nay chúng tôi đă hiểu rơ,
trước kia chẳng hiểu nổi câu này! Bao nhiêu
năm qua, chúng tôi đă bị khốn đốn bởi
câu kinh văn này, giảng theo cách nào? Tôi thân cận rất
nhiều vị đại đức, thưa hỏi
họ câu này th́ họ cũng chẳng giảng câu này rơ ràng
cho lắm. Giảng kha khá một chút là hữu t́nh chúng sanh
thành Phật th́ núi, sông, đại địa cũng
đều thành tựu. Cách giảng ấy không sai, nhưng
chưa thể khiến cho chúng tôi tâm phục, khẩu
phục. Măi cho đến lúc chúng tôi học tập Hoa
Nghiêm, học bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn
Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư mới
hoảng nhiên đại ngộ. Tác phẩm ấy giảng
về nguyên khởi của vũ trụ rơ ràng, minh
bạch. Trước khi đọc kinh luận ấy, tuy
kinh giảng rất rơ ràng, minh bạch, nhưng đối
với căn tánh của chúng tôi th́ vẫn chưa
được, thô tâm đại ư, chưa thấu hiểu
được! Kinh thường nói: “Nhất niệm bất giác bèn có vô minh”, lại
nói: “Vô minh bất giác sanh tam
tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng lục
thô”, đối với những điều kinh luận
Duy Thức đă nói, chúng ta cũng biết nói, nhưng
thường là nói chẳng rơ ràng, đối với
những phần kinh văn ấy, từ đầu
đến cuối là lơ mơ, chẳng hiểu rơ.
Từ Hoa Nghiêm, từ Hoàn Nguyên Quán mới hiểu rơ ràng,
mới hiểu điều ǵ? Nguyên lai là trong tất cả
hiện tượng vật chất đều có hiện
tượng tinh thần, tâm và vật chẳng thể tách
rời, vĩnh viễn chẳng tách rời. Trong một vi
trần có tin tức viên măn, đương nhiên hữu t́nh
và vô t́nh cùng viên măn Chủng Trí. Hiểu rơ chân tướng
của chuyện này, không chỉ có tâm cung kính đối
với con người, mà đối với một
tảng đá, một hạt cát hay bụi đều
trọn đủ tâm cung kính, quư vị mới thực
hiện được sự lễ kính chư Phật
của Phổ Hiền Bồ Tát. Ta cung kính hết thảy
mọi người, cung kính thiên địa, quỷ
thần, nhưng thiếu tâm cung kính đối với bùn,
cát và những hiện tượng tự nhiên th́ sự
lễ kính chư Phật của quư vị vẫn c̣n
thiếu sót to lớn, mà chính ḿnh chẳng biết! Phạm
vi của lễ kính to như thế, phạm vi của
mỗi điều trong chín điều kia đều là
khắp pháp giới hư không giới. Chúng ta là
người tu học Đại Thừa, cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chớ nên không
biết điều này. Đă biết, hăy thật sự
làm, trong tương lai phẩm vị văng sanh sẽ cao, phẩm
vị của chính ḿnh được nâng cao với một
mức độ lớn.
Bây giờ chúng ta xem kinh văn,
đoạn kinh này nói về mười sáu vị Chánh
Sĩ nhằm bổ sung phần Bồ Tát Chúng phía
trước.
(Kinh)
Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh
Sĩ, sở vị: Thiện Tư Duy Bồ Tát,
Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát,
Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng
Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ
Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát,
Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát,
Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải
Thoát Bồ Tát, nhi vi Thượng Thủ.
(經)又賢護等十六正士。所謂善思惟菩薩。慧辯才菩薩。觀無住菩薩。神通華菩薩。光英菩薩。寶幢菩薩。智上菩薩。寂根菩薩。信慧菩薩。願慧菩薩。香象菩薩。寶英菩薩。中住菩薩。制行菩薩。解脫菩薩。而為上首。
(Kinh: Lại có nhóm Hiền
Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ, tức là: Thiện
Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô
Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ
Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát,
Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ
Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh
Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát,
Giải Thoát Bồ Tát làm Thượng Thủ).
Đây là giới thiệu
đức hiệu của mười sáu vị
Thượng Thủ Bồ Tát. Ư nghĩa biểu thị
pháp rất sâu, bao hàm ư nghĩa đặc biệt. Trong hàng
xuất gia Bồ Tát thuộc phần trước, chỉ
nêu tên ba vị, tại gia Bồ Tát nêu ra mười sáu
vị, điều này có ư nghĩa ǵ? Chúng ta phải
hiểu rơ, pháp môn này đặc biệt dành cho các
đồng học tại gia tu tập, thích hợp
nhất đối với sự tu hành tại gia.
Mười sáu vị Bồ Tát có địa vị b́nh
đẳng với Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc.
Tại gia có thể thành tựu Đẳng Giác Bồ Tát,
chúng ta chớ nên không hiểu đạo lư này. Chúng ta
đọc lời chú giải của lăo cư sĩ: “Chánh Sĩ
giả”, trước tiên
giải thích Chánh Sĩ là ǵ, “Độ Thế Kinh viết: Khai Sĩ, Đại
Sĩ, Thánh Sĩ, Lực Sĩ, Chánh Sĩ đẳng, giai
Bồ Tát chi dị xưng” (Kinh Độ Thế[6]
nói: “Khai Sĩ, Đại Sĩ, Thánh Sĩ, Lực Sĩ,
Chánh Sĩ v.v... đều là tên gọi khác của Bồ
Tát”). Trong kinh Phật có nhiều cách xưng hô như
thế, quư vị thấy những danh xưng ấy toàn là
biệt hiệu của Bồ Tát. Trong kinh Độ
Thế nói tới Khai Sĩ, th́ Khai (開) là khai ngộ, chẳng phải là khai
ngộ tầm thường, mà là đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, người như
vậy được gọi là Khai Sĩ, Bồ Tát,
hoặc Pháp Thân Bồ Tát. Đối với danh xưng
Đại Sĩ, quư vị thấy chúng ta nói Quán Âm
Đại Sĩ, Phổ Hiền Đại Sĩ,
đấy cũng chính là Ma Ha Tát trong tiếng Phạn,
[nghĩa là] Đại Bồ Tát, đều là danh xưng
của Pháp Thân Bồ Tát. Thánh Sĩ: Thánh nhân, chẳng
phải là con người, thánh ở đây là đại
thánh, chẳng phải là tiểu thánh. A La Hán, Bích Chi
Phật, Quyền Giáo Bồ Tát được coi là
tiểu thánh, c̣n những vị này là đại thánh.
Lực Sĩ là danh xưng thường dùng trong Mật
Tông, như Kim Cang Lực Sĩ[7]
thường được nói tới trong [các kinh sách
của] Mật Tông. Chánh Sĩ: Chánh là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác,
gọi là Chánh Sĩ. Pháp Thân Bồ Tát đều là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chỉ kém một
chút là tập khí vô minh vẫn c̣n, do [tập khí] có dầy
hay mỏng khác nhau, cho nên có bốn mươi mốt
đẳng cấp. Đối với hết thảy
cảnh duyên, các Ngài thật sự chẳng khởi tâm,
không động niệm, chúng ta phải biết
điều này.
Chúng ta lại xem tiếp: “Chân Giải vân” (sách Chân
Giải nói), trong phần trước tôi đă giới
thiệu cùng quư vị, đây là tác phẩm chú giải
của tổ sư đại đức Nhật Bản, “Chánh vị chánh đạo,
Sĩ vị sĩ phu” (Chánh là chánh đạo, Sĩ là
sĩ phu), đấy là bậc sĩ đại phu, “tại gia chi xưng. Thử
đẳng đại sĩ, ngoại hiện phàm h́nh,
nội thâm đạt chánh đạo cố, cư gia danh
vi Chánh Sĩ” (là danh
xưng của người tại gia. Các vị Đại
Sĩ này ngoài hiện h́nh tướng phàm phu, bên trong
thấu hiểu sâu xa chánh đạo, sống tại gia,
gọi là Chánh Sĩ). Đây là tại gia Bồ Tát,
tại Trung Quốc, người tu hành tại gia được
gọi là Cư Sĩ. Cư sĩ là người tại gia
tu đạo nên gọi là Cư Sĩ. Nói chung, đối
với các vị Đại Sĩ, tức hàng Pháp Thân
Bồ Tát, có nhiều danh xưng, đối với tại
gia Bồ Tát [th́ các danh xưng] Khai Sĩ và Chánh Sĩ
cũng được dùng rất nhiều, thường
thấy [sử dụng trong giới Phật giáo]. “Ngoại hiện phàm h́nh”, “phàm h́nh” là thân phận tại
gia, trên thực tế là “thâm
đạt chánh đạo”, “đạt”
(達)
là thông đạt, chẳng phải là nông cạn, tầm
thường, mà là “thâm đạt”, “thâm” nghĩa là minh tâm
kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Đời
Đường, thuở Lục Tổ tại thế, trong
hội của Ngài có bốn mươi ba người minh
tâm kiến tánh, trong đó có tại gia cư sĩ chứng
đắc quả vị Pháp Thân Bồ Tát.
“Hựu
Hội Sớ viết: Thập lục Chánh Sĩ giả,
Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh ngôn” (sách Hội
Sớ lại nói: “Mười sáu vị Chánh Sĩ, kinh
Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh nói”), đây là danh
xưng của một bộ kinh, tức là Văn Thù Sư
Lợi Nghiêm Tịnh Kinh[8],
kinh ấy nói: “Bồ Tát bát
vạn tứ thiên cập thập lục Chánh Sĩ”
(Bồ Tát tám vạn bốn ngàn và mười sáu vị
Chánh Sĩ). Có thể thấy là mười sáu người
này thường được đức Thế Tôn nêu lên
làm thí dụ, gương mẫu, khuôn phép trong khi giảng
kinh, giáo học. “Tắc minh tri
Chánh Sĩ chi danh, vân cư gia Bồ Tát” (cho thấy danh xưng
Chánh Sĩ chỉ hàng tại gia Bồ Tát), nói rơ
mười sáu vị này đều là tại gia đại
Bồ Tát, chẳng phải là kẻ tầm thường. “Chánh vị chánh đạo,
Sĩ vị cư sĩ” (Chánh là chánh đạo, Sĩ
là cư sĩ), Hoàng lăo cư sĩ nói như vậy, chúng ta
càng dễ hiểu. “Thử
đẳng đại sĩ, tuy bảo quang ḥa trần”
(các vị đại sĩ ấy, tuy sống lẫn
với phàm nhân), Trung Quốc cũng có một thành ngữ
có tánh chất hoàn toàn tương đồng là “ḥa quang đồng trần”,
ḥa quang đồng trần và câu này (bảo quang ḥa
trần) có ư nghĩa hoàn toàn giống nhau. “Cửu xuất ư tà đạo, thâm đạt
ư chánh pháp, cố vân Chánh Sĩ dă” (đă thoát khỏi tà đạo từ
lâu, thông đạt sâu xa chánh pháp, nên gọi là Chánh Sĩ),
đây là cổ đại đức giải thích danh từ
này. “Chuẩn thượng
khả tri, Chánh Sĩ giả, tức tại gia Bồ Tát”
(chuẩn theo những điều trên đây có thể
biết Chánh Sĩ chính là tại gia Bồ Tát), đây là
lời tổng kết, nhằm kết luận mười
sáu vị trên đây toàn là tại gia Bồ Tát. “Hựu thập lục giả,
Mật Tông dĩ thập lục số, biểu viên măn vô
tận” (Lại nữa, Mật Tông
dùng con số mười sáu để biểu thị
sự viên măn vô tận); do vậy, đối với
mười sáu vị này, con số mười sáu cũng nhằm
biểu thị pháp, dùng các Ngài để đại
diện viên măn chúng tại gia. “Xuất
Sanh Nghĩa vân” (sách Xuất Sanh Nghĩa nói), Xuất Sanh
Nghĩa[9]
là tên một quyển sách, là một bộ luận, chúng ta
cũng có thể nói trong bài luận văn ấy lại
giảng: “Quyết hữu hà sa
trần hải số lượng, cử thập lục
vị yên, diệc trần sa chi số bất xuất ư
thử hỹ” (Số
lượng dẫu nhiều như hằng sa biển các vi
trần, cũng chỉ nêu ra mười sáu vị mà
thôi, số nhiều như trần sa cũng chẳng ra
ngoài số này), nói rơ “mười
sáu” là biểu thị pháp. Chúng ta đừng nên nghĩ nó là
một con số, mà phải thấy nó là biểu thị
pháp, ư nghĩa sẽ càng viên măn. V́ sao? Trong đại
hội này, hàng tại gia học Phật chứng
đắc minh tâm kiến tánh chắc chắn không chỉ
là mười sáu vị, cho nên “mười sáu” biểu
thị sự viên măn. Ư nghĩa này hay lắm, gồm
trọn hết thảy những người tại gia
đă đạt tới tŕnh độ này.
Tiếp đó là giới
thiệu từng vị một, đầu tiên là giới
thiệu Hiền Hộ. “Hiền
Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ, thường
kiến kinh luận” (Nhóm Hiền Hộ mười sáu
vị Chánh Sĩ thường thấy [nhắc tới]
trong kinh luận). Trong khi giảng kinh, giáo học,
đức Phật thường lấy các vị này làm thí
dụ. “Thắng Tư Duy
Phạm Thiên Kinh cập Tư Ích Kinh, liệt thập
lục danh. Trí Độ Luận tiêu thập lục,
đản cẩn liệt lục danh” (Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên và kinh
Tư Ích có nêu tên mười sáu vị này. Trí Độ
Luận nhắc đến mười sáu vị, nhưng
chỉ nêu tên sáu vị đầu), nêu ra mười sáu vị,
nhưng [Trí Độ Luận] chỉ kể tên sáu vị. “Luận viết” (Luận
chép), Luận ở đây là Đại Trí Độ
Luận, “Thiện Thủ”,
Thiện Thủ chính là Hiền Hộ, tức là sự
thủ hộ hiền thiện, có ư nghĩa này. “Đẳng thập lục Bồ Tát thị cư gia Bồ Tát.
Hạ liệt ngũ danh, tư bất cụ dẫn”
(mười sáu vị Bồ Tát là tại gia Bồ Tát,
kế đó nêu tên năm vị, ở đây không nêu tên
đầy đủ), tỉnh lược, chứng
tỏ những vị này đều là đại Bồ Tát
tại gia học Phật, minh tâm kiến tánh, đại
triệt đại ngộ được đức
Thế Tôn nhắc đến. “Tư
Ích Kinh vân: Nhược hữu chúng sanh văn danh giả,
tất cánh đắc Tam Bồ Đề, cố vân
Thiện Thủ” (Kinh Tư Ích nói: “Nếu
có chúng sanh nghe tới tên Ngài sẽ rốt ráo đắc Tam
Bồ Đề. V́ vậy, gọi Ngài là Thiện Thủ”). Tam
Bồ Đề (Sambodhi) là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Có thể thấy những vị Bồ Tát này, trí
huệ, thần thông, đạo lực có thể làm cho
hết thảy chúng sanh nghe danh hiệu các Ngài cũng
đạt được Tam Bồ Đề. V́ thế,
danh hiệu, pháp danh đức hiệu của Ngài là
Hiền Hộ, Thiện Thủ có nghĩa là Hiền
Hộ. “Hựu Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ
Kinh” (lại nữa, kinh Đại Phương
Đẳng Đại Tập Hiền Hộ), đức
Thế Tôn đặc biệt giới thiệu Hiền
Hộ Chánh Sĩ với mọi người, giảng
về Ngài trong buổi giảng ấy, trong kinh ấy có
nói: “Vương Xá đại
thành hữu ưu-bà-tắc, danh viết Hiền Hộ, vi
chúng thượng thủ” (Đại thành Vương Xá
có ưu-bà-tắc tên là Hiền Hộ, là thượng
thủ của đại chúng), Ngài là thượng thủ
của hàng cư sĩ. “Hựu
Đại Bảo Tích Kinh Hiền Hộ Trưởng
Giả hội” (lại nữa trong hội Hiền
Hộ Trưởng Giả của kinh Đại Bảo
Tích), Bảo Tích là một trong hơn ba trăm hội
của đức Thế Tôn; hội này có quy mô rất
lớn, trong hội này, đức Phật nói rất
nhiều kinh điển, nói mấy chục bộ. Đây
là một đại pháp hội, thời gian cũng rất
dài, trong hội này, tức là trong hội Đại Bảo
Tích cũng có nói kinh Vô Lượng Thọ. “Phật thuyết Hiền Hộ trưởng
giả chúng lạc sự” (đức Phật nói về
các điều vui sướng của trưởng giả
Hiền Hộ), “lạc” là
yêu chuộng, chuyện vui sướng. “Kỳ thọ ư khoái lạc quả báo, tuy
phục Đao Lợi Đế Thích Thiên Vương do
bất năng cập, huống phục nhân gian”
(hưởng quả báo vui sướng, dẫu là Đao
Lợi Đế Thích Thiên Vương c̣n chưa thể
sánh bằng, huống hồ nhân gian). Có nhân ắt có
quả, Phật pháp đă thật sự đem lại
sự thọ dụng chân thật cho con người.
Thuở tôi học Phật, v́
lúc tuổi trẻ học hành trong trường, chịu
ảnh hưởng của giáo viên, thầy đôi khi
cũng bàn tới tôn giáo, luôn bảo tôn giáo là mê tín. V́ thế,
đối với tôn giáo, chúng tôi cũng hiểu lầm
rất sâu, chẳng muốn tiếp xúc tôn giáo, luôn nghĩ
tôn giáo là mê tín. Nhân duyên khiến tôi học Phật là do
học Triết Học với tiên sinh Phương Đông
Mỹ, thầy Phương giảng một bộ
Triết Học Khái Luận, phần cuối cùng là
Triết Học Trong Kinh Phật. Tôi rất hiếu kỳ,
hỏi thầy: “Tôn giáo là mê tín, Phật giáo là phiếm
thần giáo, đa thần giáo, là mê tín nhất trong các
thứ mê tín, làm sao có triết học cho được?”
Thầy bảo tôi: “Anh c̣n trẻ, không biết, Thích Ca Mâu Ni
Phật là triết gia vĩ đại nhất trên thế
giới”. Tôi học Triết Học, chưa hề nghe nói
Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia. Thầy lại bảo
tôi: “Triết học trong kinh Phật là đỉnh cao
nhất của triết học trong toàn thế giới,
học Phật là hưởng thụ cao nhất trong
đời người”. Kinh nói tới điều này,
Hiền Hộ Bồ Tát học Phật tới mức pháp
hỷ sung măn; nói cách khác, đạt tới sự
hưởng thụ cao nhất trong thế gian. Câu này có cùng
một ư nghĩa với câu nói của thầy Phương
bảo tôi thuở ấy. Tôi đọc câu này có cảm xúc
cũng rất sâu, có đạt được sự
hưởng thụ tối cao ấy hay không? Tôi đă
học Phật năm mươi chín năm, sang năm là
đúng một giáp, đă sáu mươi năm rồi,
thật sự đạt được, hằng ngày
đều đạt được, hoan hỷ khôn sánh,
chứng thực lời cổ đức đă bảo: “Ư vị thế gian há nồng
đậm bằng pháp vị?” Nếu đem ư vị
của nhân gian thiên thượng sánh với pháp vị,
chẳng có cách nào sánh bằng!
Nhân gian thiên thượng là ǵ?
Nói tới sự phú quư trong nhân gian; người Trung
Quốc nói tới Ngũ Phước, Phú là có của
cải, Quư là địa vị cao cả, vào thời cổ
là tước vị, đế, vương, công, hầu,
những tước vị ấy sang quư. C̣n có ba
điều nữa là “đa nam
nữ”, tức là đông con lắm cháu, “đa tử đa tôn”. “Hiếu đức hiếu
thiện” (ham đức, chuộng lành), chẳng thể
thiếu một điều nào. Hễ thiếu một
điều, dẫu trong quá khứ tu đại phú
đại quư, sẽ hưởng hết rất nhanh, khi
hưởng hết sẽ lụn bại, phú quư đă
hưởng hết rồi! Nếu người ấy ham
thiện, chuộng đức, quư vị thấy vừa
hưởng phú quư vừa tu phú quư th́ phước báo
mới chẳng hưởng hết, đời đời
kiếp kiếp dằng dặc không dứt. Điều
cuối cùng, lúc mất tốt lành, tức “thiện chung”. Người Hoa nói là “thiện chung”, [tức là] lúc
mất, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, chẳng
đau khổ. Người như vậy rời khỏi
thế gian, đời sau chẳng vào nhân gian hưởng
thụ phú quư, mà sẽ cao hơn đời này, sẽ sanh
lên trời để hưởng phước trời.
Đó là Ngũ Phước. Trong Ngũ Phước, quan
trọng nhất là điều cuối cùng, v́ lẽ nào? Nó
quyết định quả báo của quư vị trong
đời sau. Nếu chết chẳng tốt lành, hiện
thời chúng ta thường thấy người già lú
lẫn, chuyện này rất phiền phức, chẳng
phải là chuyện tốt đẹp. Người già
bị lú lẫn, dẫu chúng ta niệm Phật trợ
niệm cho họ, họ cũng chẳng được
hưởng ǵ, chẳng đạt được lợi
ích ấy, chắc chắn sẽ phải lưu chuyển
theo nghiệp. Nếu người ấy suốt
đời tích đức, hành thiện, chúng ta tin
tưởng người ấy tuổi già chẳng thể
nào mắc phải chứng bệnh ấy, v́ sao?
Người ấy có phước báo, có các thiện
hạnh và thiện đức bảo vệ. Chúng ta học
Phật càng phải chú ư điều này, học Phật mà
lúc mất bị lú lẫn th́ cũng là theo nghiệp
chịu báo. Đừng nói là quư vị tu học, tu
Thiền hay tu Mật, cho tới lúc ấy hoàn toàn chẳng
dùng được, mà niệm Phật cũng chẳng có
cách ǵ!
Chúng ta liễu giải sự
thật này, biết chân tướng này, chỉ biết nay
chúng ta đang lúc khỏe mạnh, phải nên tu ǵ, cách tu
như thế nào. Đây là những điều chúng tôi
thường nói trong những năm qua, chớ nên sơ sót
ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, chớ nên không
nghiêm túc học tập. Quư vị thật sự muốn
tích lũy công đức, công đức và phước
đức khác nhau, chớ nên coi phước đức là
công đức. Quư vị làm chuyện tốt, giúp
đỡ người khác, đó là phước
đức. Quư vị thấy thuở ấy, Đạt Ma
tổ sư đến Trung Quốc, Lương Vũ
Đế tiếp kiến Ngài. Có thể nói Lương
Vũ Đế là một vị hộ pháp lớn nhất
trong Phật giáo sử Trung Quốc, thật sự tận
tâm tận lực hộ tŕ Phật pháp. Ông ta dùng thân
phận đế vương, lập cho Phật giáo
bốn trăm tám mươi ṭa đạo tràng, tự
viện, am, đường, hộ tŕ mấy chục
vạn người xuất gia, chiếu cố họ, chính
ḿnh rất đắc ư. Đạt Ma tổ sư
đến Trung Quốc, hai người gặp mặt,
Lương Vũ Đế khoe khoang chính ḿnh đă thay
Phật môn làm những chuyện tốt đẹp như thế,
hướng về Tổ thỉnh giáo, trên thực tế
là khoe khoang: “Trong Phật môn, trẫm đă làm chuyện
tốt đẹp nhiều ngần ấy, công đức
có lớn hay không?” Đạt Ma tổ sư trả lời
bằng một câu: “Trọn chẳng có công đức”.
Lương Vũ Đế nghe câu ấy chẳng chịu
nổi, rất bực ḿnh, đuổi Tổ đi,
chẳng biếu tặng ǵ. Đạt Ma tổ sư nói
chẳng sai, Ngài là người thật thà. Nếu tán thán
nhà vua vài câu: “Rất lớn, rất lớn”, vua sẽ khoái
chí, hộ tŕ Tổ, [do Tổ không làm như vậy] nên nhà
vua hậm hực. Đây là [Tổ Đạt Ma] nói rơ
Lương Vũ Đế làm chuyện ǵ? Phước
đức, chẳng phải là công đức. Công
đức là ǵ? Công đức là tu hành. Tŕ giới có công,
có công phu sẽ đạt được ǵ? Đắc
Định, đắc Định là đức; có công phu
tu Định sẽ khai trí huệ, do Định khai
huệ, khai trí huệ là đức. V́ thế, những
thứ ấy là thật, chẳng giả, chẳng dính dáng
ǵ đến chuyện quư vị tu bố thí, cúng
dường. Bố thí, cúng dường là tu phước,
nhất định phải biết điều này. Nếu
khi ấy Lương Vũ Đế hỏi: “Trẫm có
phước đức hay không”? Nhất định tổ
Đạt Ma sẽ giơ ngón cái lên: “Rất ư là
lớn, phước đức của bệ hạ
rất lớn!”
Phước đức và công
đức khác nhau, quả báo của phước
đức là trong ba thiện đạo, công đức chẳng
phải vậy, công đức là vượt thoát lục
đạo luân hồi, thành Phật, làm Tổ, đó là công
đức. Công đức và phước đức
nhất định phải phân biệt rơ ràng, phải
hiểu rơ ràng. Chúng ta thường thấy trong chùa miếu
ghi cái rương đựng tiền để
người ta bỏ tiền vào là Công Đức
Sương (rương công đức), lầm rồi, há
phải là công đức? Người hiểu biết
sẽ ghi là Phước Điền Sương
(rương ruộng phước). Đó là đúng, quư
vị đến gieo phước, [đó là] phước
điền, chẳng có công đức. Dẫu quư vị
bố thí chùa miếu nhiều đến mấy vẫn
chẳng có công đức, mà là phước đức.
Nhất định phải hiểu rơ điều này,
đừng nên lầm lẫn. Chúng ta
học Phật, phải phước huệ song tu, công
đức và phước đức đều phải nên
tu; quư vị chỉ tu công đức, không tu phước
đức, sẽ thiếu phước! Trong kinh Phật có
câu chuyện: “Tu huệ, bất tu phước, La Hán thác
không bát” (Tu huệ, chẳng tu phước, La Hán đi
khất thực, bát rỗng tuếch), A La Hán chứng
đắc A La Hán quả, đó là công đức, nhưng
thiếu phước báo, đi ra ngoài khất thực,
chẳng được ai cúng dường, thiếu
phước mà! Ngược lại, “tu phước, bất tu huệ, đại
tượng quải anh lạc” (tu phước,
chẳng tu huệ, voi to đeo chuỗi báu). Thời
cổ, công cụ giao thông chưa có xe cộ. Tại Ấn
Độ và Nam Dương đều dùng voi để thay
thế, quốc vương ra ngoài ngồi trên lưng voi.
Voi ấy là người tu hành trong quá khứ, tu
phước, chẳng tu huệ, đời này đầu
thai đọa trong súc sanh đạo, là vật cưỡi
của quốc vương, khắp ḿnh đeo các chuỗi
báu, đó gọi là “đại
tượng quải anh lạc”. Trong kinh, đức
Phật thường nêu lên tỷ dụ này, dụng ư
rất sâu. Nếu chúng ta thấu hiểu, hăy phước
huệ song tu.
Đức Phật trọn
chẳng cấm chúng ta tu phước, nhưng tu Huệ
trọng yếu hơn tu phước, phải lấy tu
Huệ làm chánh yếu, phải tu công đức. Trợ tu
là phụ trợ th́ tu phước kèm theo, phước
huệ song tu. Bất luận tại gia hay xuất gia
đều phải hiểu đạo lư này, v́ sao? Đă gặp
gỡ Phật pháp, Phật pháp thù thắng ở chỗ nó
tạo cơ hội cho quư vị, ngay trong một
đời này có thể viên thành Phật đạo, vĩnh
viễn thoát khỏi luân hồi, chuyện này rất
hiếm có. Chẳng dễ thoát khỏi luân hồi! Đă sa
vào hầm sâu này, chỉ có gặp gỡ Phật pháp th́ quư
vị mới có cơ hội vượt thoát luân hồi.
Nhất là gặp gỡ Tịnh Độ, gặp gỡ
Tịnh Độ mà nếu thật sự chịu tu
tập, không ai chẳng thành công, thật sự giải
thoát! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ có thể nói thân thể này của chúng ta là thân cuối
cùng trong lục đạo luân hồi, đời sau
chẳng c̣n luân hồi nữa, điều này trọng
yếu lắm! Quư vị nghĩ xem c̣n có chuyện ǵ quan
trọng hơn chuyện này? Đời này chẳng thể
văng sanh, chắc chắn đời sau lại phải
tiếp tục luân hồi. Chúng ta chẳng biết nỗi
khổ luân hồi, nếu biết sẽ kinh sợ.
Chắc chắn là luân hồi trong lục đạo th́
thời gian trong tam ác đạo lâu dài, thời gian trong ba
thiện đạo ngắn ngủi, tạm bợ; quư
vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
chắc chắn thời gian trong ác đạo sẽ dài lâu.
Điều này chẳng khó hiểu, quư vị nh́n vào hoàn
cảnh sống, trong cuộc sống hằng ngày, từ
sáng đến tối, quư vị khởi lên mấy ư
niệm là Giới, Định, Huệ? Khởi mấy ư
niệm là tham, sân, si? Quư vị so sánh một chút sẽ
hiểu ngay. Nếu thời gian khởi tham, sân, si dài
hơn thời gian Giới, Định, Huệ, sẽ
đi vào tam ác đạo, tâm tham là ngạ quỷ
đạo, sân khuể là địa ngục đạo, ngu
si là súc sanh đạo. Do vậy, nếu lắng ḷng phản
tỉnh một phen, [sẽ thấy]
rất đáng sợ! Trong một ngày, từ sáng
đến tối, xử sự, đăi người,
tiếp vật, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần,
dấy lên niệm nào, nói câu nào, làm chuyện ǵ, quư vị
hoàn toàn hiểu rơ, chẳng cần hỏi ai khác, c̣n
chẳng biết đời sau bản thân ḿnh sẽ sanh vào
đâu ư? V́ vậy, muốn văng sanh th́ phải nắm
vững câu Phật hiệu, đọc kinh mỗi ngày,
tối thiểu là niệm một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, niệm một bộ kinh, niệm Phật hiệu
càng nhiều càng tốt. Chắc chắn thời gian
niệm Phật hiệu phải dài hơn thời gian
suy nghĩ lung tung, quư vị mới có thể nắm
chắc. Nếu không chống lại được, văng
sanh c̣n phải đánh dấu hỏi, chưa xác
định. Tụng kinh, niệm Phật là công đức
chân thật, tu thiện tích đức là chuyện tốt
đẹp, phước huệ song tu, như vậy là
đúng. Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta
học tới đây.
Tập 96
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang
một trăm mười, ḍng thứ hai từ
dưới đếm lên, xem từ câu thứ hai:
“Hựu
Danh Nghĩa Tập viết: “Bạt Đà Bà La” (Lại
nữa, sách Danh Nghĩa Tập[10]
nói: “Bạt Đà Bà La”), đây là tiếng Phạn, “phiên vi Hiền Hộ, tự
hộ hiền đức, phục hộ chúng sanh cố.
Hoặc vân Hiền Thủ, dĩ vị cư Đẳng
Giác, vi chúng hiền chi thủ cố” (dịch là Hiền Hộ, tự ǵn
giữ hiền đức, lại hộ tŕ chúng sanh.
Hoặc dịch là Hiền Thủ, do Ngài ở địa
vị Đẳng Giác, là Thượng Thủ của các
bậc hiền nhân). Đoạn này giải thích ư
nghĩa biểu pháp trong danh hiệu. Tiếng Phạn
Bạt Đà Bà La (Bhadrapāla), dịch sang nghĩa
tiếng Hán là Hiền Hộ. Hiền là ǵ? Hộ là ǵ? “Tự hộ hiền
đức” (tự ǵn giữ hiền đức) là ư
nghĩa của chữ Hiền, “phục
hộ chúng sanh” (lại hộ tŕ chúng sanh) là ư nghĩa
của chữ Hộ. Do vậy, Hiền là đối
với chính ḿnh mà nói, Hộ là đối với
đại chúng mà nói. Hiền đức vô lượng vô
biên, cũng giống như người Hoa dạy trẻ
nhỏ, quư vị thấy họ dạy trẻ con, lúc
mới nhập học, nói chung là sáu bảy tuổi,
học Tam Tự Kinh. Tam Tự Kinh là khái luận của
văn hóa truyền thống Trung Quốc, quư vị thấy
vừa nhập môn sẽ dạy tác phẩm này, vun
đắp khái niệm này trước hết. Phương
pháp dạy học như thế thật sự là trí
huệ lỗi lạc, chẳng giống như
người ngoại quốc. Người ngoại
quốc dạy trẻ nhỏ, họ nói rất thực
tế, cho là trẻ nhỏ chẳng hiểu lư luận
lớn lao như “nhân chi sơ,
tánh bổn thiện” (con người thoạt
đầu, tánh vốn lành), làm sao chúng nó có thể hiểu
được? Chúng nó có thể hiểu điều ǵ? Con
cún sủa, con mèo bé nhảy nhót, chúng hiểu những
điều này, bèn dạy cho chúng những điều ấy.
Tuy [nh́n bề ngoài] trẻ chẳng hiểu, quư vị
chẳng thể nói chúng nó không hiểu, chớ nên coi
thường chúng. Trẻ nhỏ có trí huệ vô cùng cao. Các
bác sĩ tâm lư học của Tây phương trong thời
cận đại đă dùng thuật thôi miên để
chứng thực điều này. Không chỉ là trẻ
thơ sau khi được sanh ra, mà ngay cả trước
khi sanh, ở trong thai mẹ, chúng cũng rất thông minh,
hoàn toàn hiểu rơ tâm t́nh của mẹ, mẹ ăn
uống ǵ, chúng nó đều có thể cảm nhận
được. Làm sao quư vị có thể nói là chúng không
biết? Những người ấy sau khi phát hiện
[sự thật trên đây], mới thật sự nghĩ
cổ nhân Trung Quốc nói “thai giáo” rất hữu lư!
Hiền đức là như trong
kinh Hoa Nghiêm đức Phật đă dạy: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Trí huệ là đức, trí huệ chính là
đức được nói tới trong “hiền đức” ở đây. Ở chỗ
này, đức năng và tướng hảo
được gọi là Hiền, chúng vốn sẵn có
trong tự tánh. Trong câu nói này, đức Phật hoàn toàn nói
tới cương lănh của nó (tánh đức). Trong khi
dạy học, đức Phật bảo chúng ta, Thập
Thiện là hiền đức, chính ḿnh vốn sẵn có.
Tam Quy, Ngũ Giới, Lục Ḥa, Lục Độ,
mười nguyện Phổ Hiền đều là nói
tới cương mục, cũng chẳng nhiều. Chúng
tôi khẳng định tổ tông đều là Phật,
Bồ Tát tái lai, lời họ nói hoàn toàn tương tự
với kinh Phật. Nếu quan sát kỹ lưỡng, có
đến bảy tám phần trong mười phần
giống như những điều do các vị sáng lập
các đại tôn giáo trên toàn thể thế giới đă nói
trong kinh điển, chỉ sai khác một hai phần trong
mười phần. Chỗ không giống nhau là ǵ? Tập
quán sinh hoạt. Trên thế giới này, chúng sanh đông
dường ấy, hoàn cảnh cư trụ khác nhau,
bối cảnh văn hóa khác nhau, cho nên có những thói quen
khác nhau, Phật, Bồ Tát hằng thuận chúng sanh, hoàn
cảnh ấy, phong tục tập quán ấy sẽ có
lợi cho họ. Tập quán của người thuộc
hàn đới là sống trong cảnh trời băng
đất tuyết, họ đến vùng nhiệt
đới chẳng thể chịu được, không
thể chịu đựng khí hậu nơi đó. Cũng
giống như vậy, người vùng nhiệt
đới đến vùng băng giá cũng sống
chẳng quen. Hiện thời, giao thông thuận tiện,
trước kia giao thông bất tiện, đúng là có những
trường hợp cho đến khi chết già vẫn
chẳng qua lại với nhau, hoạt động cả
đời chỉ là mấy thôn trang thân cận, có bao giờ
tới huyện thành hay không? Cả đời cũng
chẳng đi đến. V́ thế, thánh nhân giáo hóa tùy
thuận tánh đức.
Thánh nhân Trung Quốc dạy
chúng ta điều ǵ? Cũng rất đơn giản,
mấy ngàn năm chẳng thay đổi, tổng
cương lănh gồm mấy hạng mục là Ngũ Luân,
Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Trung Quốc
ngàn vạn năm truyền thừa những thứ ấy.
Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh của Nho gia,
thậm chí mở rộng đến Tứ Khố Toàn
Thư, trong ấy nói những ǵ? Há chẳng phải là
những điều ấy? Tuyệt đối chẳng
rời khỏi bốn khoa mục ấy. Bốn khoa
mục là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát
Đức. Chúng ta quy nạp chúng lại, nói thật sự
là mười hai chữ, “hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa
b́nh”, mười hai chữ ấy và bốn khoa mục,
khi quư vị đọc kỹ, bốn khoa mục ấy
sẽ quy nạp thành mười hai chữ. Mấy ngàn
năm giáo học của Trung Quốc, tổ tông các
đời truyền thừa đều là những thứ
ấy, chưa hề biến đổi. Chỉ sau khi nhà
Măn Thanh vong quốc, Dân Quốc thành lập, những
điều ấy mới bị coi nhẹ, bỏ sót.
Thời Dân Quốc vẫn chẳng thay đổi những
điều ấy, nhưng không coi trọng và nghiêm túc
như trong thời đại đế vương xưa
kia. Vua chúa xưa kia nghiêm túc coi trọng điều này,
khiến cho xă hội an tường, ḥa hợp, hóa giải
khá nhiều tai nạn. Hiện thời chúng ta đă
hiểu rơ những nguyên lư ấy; đúng là kinh Phật
đă dạy chẳng sai chút nào: “Tướng
do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Tâm thái của chúng ta
tốt đẹp, niệm niệm chẳng rời
khỏi mười hai chữ này. Khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều chẳng vi phạm
“hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”, quư vị
chẳng vi phạm chúng. Mười hai chữ này
được nói trong kinh điển nhà Phật, so
với các điển tịch của nhiều nhà tôn giáo
trên thế giới, quư vị thấy hoàn toàn giống nhau.
Cốt lơi của mười hai
chữ là Ái, tức là Ái trong “nhân ái, ḥa b́nh”. Nhà Phật
chẳng nói Ái, mà nói từ bi, từ bi chính là Ái. V́ sao
đức Phật không nói Ái, mà phải nói từ bi? V́
người thế gian thấy chữ Ái này, trong Ái có t́nh,
nên gọi là ái t́nh. Ái rất tốt, nhưng t́nh là bất
hảo! Do vậy, đức Phật không nói Ái, mà nói
từ bi. Từ bi là Ái, trong đó có lư trí, điều này
tốt lắm! Trong Ái phải có lư tánh, phải có trí
huệ, chớ nên dùng cảm t́nh. Ái bằng cảm t́nh
chẳng phải là thật, mà là giả ái, là hư t́nh
giả ư, nhất định phải biết điều
này. V́ sao? Nó bị biến đổi. Từ bi là Chân Ái,
vĩnh hằng chẳng thay đổi, chân thật! V́
lẽ đó, Phật giáo dùng từ bi, không dùng Ái; nhưng
trong các sách vở của nhiều tôn giáo trên thế
giới chúng ta thấy nói “thần yêu thương con
người”, hoặc “Thượng Đế yêu
thương con người”. Chúng ta biết ḷng yêu
thương ấy chính là từ bi như trong nhà Phật
đă nói, chẳng phải là xử sự bằng cảm
t́nh, chúng ta nhất định phải hiểu điều
này. Chúng ta thấy trong kinh Cổ Lan (Koran), mấy câu
trọng yếu trong phần trước đều được
nhắc đến, “Chân Chúa
quả thật nhân từ”. Nhân từ tốt lắm,
nhân từ và từ bi như trong nhà Phật đă nói hoàn
toàn giống nhau. Phía sau nhân từ là trí huệ, là lư tánh,
chẳng phải là cảm t́nh, đấy là cốt lơi
của tánh đức, là trung tâm điểm của tánh
đức. Tất cả hết thảy hiền
đức đều phát xuất và được phát huy
rạng rỡ từ nơi đây. Người có thể
hộ tŕ hiền đức của chính ḿnh sẽ gọi
là “biết yêu thương chính ḿnh”.
V́ vậy, người nào
thật sự yêu thương chính ḿnh? Nói theo Phật pháp,
nói nghiêm ngặt th́ là Pháp Thân Bồ Tát thực hiện
trăm phần trăm sự “yêu thương chính ḿnh”.
Ở đây, nhóm Hiền Hộ gồm mười sáu
vị tôn giả thật sự là Pháp Thân Bồ Tát. Không
chỉ là Pháp Thân Bồ Tát, mà c̣n là Đẳng Giác Bồ
Tát trong các vị Pháp Thân Bồ Tát, địa vị cao
cả. Trong năm mươi mốt địa vị
Bồ Tát của Phật giáo, các Ngài đă đạt
tới địa vị cao nhất. Lên cao hơn nữa
sẽ là Phật quả viên măn rốt ráo, được
gọi là địa vị Diệu Giác. Đẳng Giác
đạt đến tối cao, Pháp Thân Bồ Tát có
bốn mươi mốt địa vị, địa
vị [Đẳng Giác] này cao nhất. Chúng ta có thể nói
theo kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ Bồ Tát, trong kinh Hoa Nghiêm,
Sơ Trụ Bồ Tát thực hiện được
sự “yêu thương chính ḿnh”, thật sự yêu
thương chính ḿnh. Biết thân là giả, chẳng
thật, chẳng c̣n v́ thân thể này tạo nghiệp, ư
niệm tự tư tự lợi chẳng c̣n, ư niệm
tiếng tăm, lợi dưỡng chẳng có, chẳng
c̣n đuổi theo tiếng tăm, lợi dưỡng,
chúng là giả, chẳng c̣n tham cầu hưởng thụ
ngũ dục, lục trần trong thế gian; tham, sân, si,
mạn sẽ giảm bớt trên một mức độ
lớn. Muốn đoạn chúng rất khó, thật sự
đoạn được sẽ thành A La Hán; v́ thế,
đoạn những phiền năo ấy rất khó khăn!
Trong giai đoạn tu học của chúng ta, chúng đă
được giảm nhẹ, chẳng nghiêm trọng
như trong quá khứ, đó gọi là Hiền Hộ.
Đấy là điều chúng ta hăy nên làm, có thể hộ
tŕ tánh đức của chính ḿnh; ở đây [sách Danh
Nghĩa Tập] nói là “tự
hộ hiền đức”. Người ấy đúng
như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói: Đă
đạt được sự hưởng thụ cao
nhất trong đời người.
Quư vị phải biết
sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người chẳng liên quan ǵ đến của cải và
địa vị. Điển h́nh và khuôn phép tốt
nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật. Chẳng phải là Ngài không
có [của cải, địa vị], Ngài sanh ra trong gia
đ́nh phú quư, phú quư từ lúc mới lọt ḷng. Nếu
Ngài chẳng xuất gia, sẽ nối ngôi vua, người
Hoa nói: “Quư vi thiên tử, phú
hữu tứ hải” (thiên tử sang quư, giàu có khắp bốn
biển), Ngài có thân phận như thế. Đức
Phật thông minh, giác ngộ từ nhỏ, hiểu rơ,
mười chín tuổi bèn ĺa bỏ cuộc sống trong
cung vua, rời khỏi gia đ́nh đi
học đạo; nay chúng ta gọi là “du học”, thuở
ấy gọi là “tham học”, tức là đi học
hỏi những bậc cao nhân trong giới tôn giáo và
giới học thuật. Cổ nhân Trung Quốc
thường nói: “Nhân
đồng thử tâm, tâm đồng thử lư”
(người có cùng cái tâm này, tâm có cùng lư này). Chúng ta có
thể hiểu, Ngài có thân phận là vương tử,
lại vừa thông minh, hiếu học, tuổi
trẻ như thế, mười mấy hai mươi
tuổi. Ai không ưa thích hạng học tṛ như thế?
Trong thời đại ấy, Ấn Độ đích xác
là nước tôn giáo [phát triển nhất] trên toàn cầu,
bất luận tôn giáo hay học thuật đều
đạt tới cảnh giới rất cao. Họ sử
dụng phương pháp, tuy chẳng giống như khoa
học kỹ thuật hiện đại, họ sử
dụng Thiền Định. Thiền Định có
thể đột phá các chiều không gian, người b́nh
phàm chúng ta gọi điều đó là “thần thông”.
Những thứ chúng ta không thể thấy bằng mắt
thịt, khi nhập Định, trong Định họ có
thể trông thấy. Trong Định có thể thấy quá
khứ, tương lai. Do vậy từ cổ đến
nay đều có những dự ngôn (lời tiên đoán),
thuở chúng tôi c̣n trẻ, đối với những
thứ ấy cũng hiếu kỳ.
Tôi thân cận lăo cư sĩ Lư
Bỉnh Nam, thỉnh giáo lăo nhân gia: Có thể tin
tưởng những dự ngôn hay không? Có nên dựa theo
đó hay không? Lăo nhân gia bảo tôi: Dự ngôn chẳng
rời khỏi Lư Số, đó là cơ sở của chúng.
Tại Trung Quốc, dự ngôn chẳng rời khỏi kinh
Dịch. Nếu tính toán rất chuẩn xác, quả thật
có thể tin tưởng, nhưng loại tính toán này
đúng là “sai chỉ hào ly,
lầm lạc ngàn dặm”. V́ sao có dự ngôn rất
chuẩn xác, có dự ngôn không chuẩn xác, những
điều đă nói chẳng hề xảy ra? Đó là v́
trong ấy có đôi chút sai lầm sẽ chẳng chuẩn
xác. V́ thế, nhà Phật nói họ dùng Tỷ Lượng,
suy lường, nhưng thầy nói: Nếu là những
điều thấy trong Định sẽ hết sức
chuẩn xác. V́ thế, thầy bảo tôi: Thiền sư
Hoàng Bá có mấy bài thơ dự ngôn chuẩn xác, nhưng
những bài thơ ấy rất khó hiểu, giống
như câu đố, rất khó suy luận thấu
triệt. Đó là cảnh giới trong Định, là
cảnh giới Hiện Lượng. Phàm là những
loại dự ngôn giống như vậy đều
rất đáng tin.
Trong xă
hội hiện thời, sợ chẳng thể thấy
người nào có thể nhập Định, chẳng c̣n
có người như vậy nữa. Trong thế kỷ
trước, c̣n có người tu hành đắc Định
như lăo ḥa thượng Hư Vân, trong thế kỷ này
t́m không ra! Phiền năo tập khí trong tâm rất nặng, quư
vị chẳng có cách nào nhập định. Ngoài xă hội
th́ như người ngoại quốc nói “từ
trường hết sức bất hảo”. Chẳng nói chi
khác, sóng vô tuyến điện quấy nhiễu quư vị
đắc Định. Quư vị thấy hiện thời
sóng vô tuyến điện là bao nhiêu? Đừng nói chi khác,
cell phone của mỗi cá nhân phát ra sóng điện đă ghê
gớm lắm rồi. Chúng ta mắt thịt nh́n không
thấy. Nếu chúng ta thấy th́ cả địa cầu
bị những sóng điện từ bao phủ kín
mít. Trong hoàn cảnh ấy, người ta chẳng có cách
nào khiến tâm chẳng dao động, bộp chộp
được? Tâm dao động, tính t́nh bộp chộp
là ǵ? Do sóng điện từ quấy nhiễu, rất
phức tạp. Trong quá khứ, khi chưa có những
kỹ thuật ấy phát minh, không có hiện tượng
này, hiện thời phiền phức ngày càng nghiêm trọng.
Khoa học đổi mới khác lạ mỗi tháng,
mỗi ngày, tạo ra những ảnh hưởng tiêu
cực quá lớn. Đúng là “được không bù nổi
mất”. Nhiễu loạn tâm t́nh, chướng ngại
cuộc sống b́nh thường, tâm thái b́nh thường,
tư duy b́nh thường của chúng ta. Ngày nay chúng ta
tự bảo vệ chính ḿnh ra sao? Tận hết sức
giảm bớt những thứ này. Trước kia không có
điện thoại, chẳng phải là cũng sống
được hay sao? Hiện thời chẳng lẽ không
có thứ ấy liền chẳng thể sống hay sao?
Đâu có đạo lư ấy! Họ cứ phát minh, ta có
quyền cự tuyệt, chẳng dùng đến nó. Trong
cuộc sống hằng ngày, chỉ có người khác
gọi điện thoại cho tôi, trước nay, tôi
chẳng gọi điện thoại cho ai. V́ sao? Tôi
chẳng muốn tạo tội nghiệp ấy: Dùng
loại sóng điện này nhiễu loạn người khác,
phải hiểu điều này. Người khác gọi tôi,
tôi không có cách nào, chẳng thể không tiếp nhận. Nay
th́ khá hơn, có người khác nhận giùm tôi, tôi chẳng
cần phải nghe nữa. V́ thế, nói chung phải
nghĩ tới phương pháp bảo vệ chính ḿnh.
Tổ tiên đă ban cho người Trung
Quốc ân huệ quá lớn. Ân huệ lớn nhất là
phát minh ra văn tự. Văn tự là một phương
tiện chuyển tải truyền thông. Văn tự Trung
Quốc là phù hiệu trí huệ, quư vị không biết
đọc cũng không sao. Trông thấy h́nh dạng của
chữ, sẽ hiểu được ư nghĩa của nó.
Đó là trí huệ. Trong văn tự ngoại quốc không
có hiệu quả như thế. Phù hiệu trí huệ th́
quư vị nh́n lâu sẽ khai ngộ. Chẳng thể sửa
đổi văn tự ấy, chúng ta thiếu trí huệ
như tổ tông th́ làm sao có thể sửa đổi
văn tự ấy?
Do vậy,
phải luôn nghĩ “bổn tánh
bổn thiện” (bản tánh vốn lành), bổn
thiện là hiếu, đễ, trung, tín, chúng ta khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, trước hết
có nghĩ sẽ xứng với tổ tông hay không? Có
xứng với cha mẹ hay
không? Tâm hạnh ta chẳng lành, cha mẹ chẳng hoan
hỷ, tổ tông chẳng thể tiếp nhận, vậy
th́ không thể làm như thế được! Chúng ta hành
hiếu, hành đễ, “đễ” là tôn kính bề trên, tôn
kính những người cùng hàng. Phải tôn kính những
người cùng vai vế hoặc bậc trưởng
bối, đó là đễ đạo, thực hiện
từ “anh em yêu thương, ḥa thuận”, cho đến yêu
thương, nhường nhịn hết thảy những
người có cùng độ tuổi, vai vế với ta.
Trung với nước nhà, trung với dân tộc, trung
với xă hội, trung với lănh đạo. Trung là ǵ?
Chịu trách nhiệm. Con người nói năng phải
giữ chữ tín, làm người nhất định
phải giữ sự tín nhiệm, không nói dối, không nói
đôi chiều, chẳng nói thêu dệt, chẳng ác
khẩu, đều thuộc về chữ Tín này. Lễ,
nghĩa, liêm, sỉ, xử sự, đăi người,
tiếp vật, chớ nên coi thường, thiếu sót
lễ. Nghĩa là hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp; liêm là
liêm khiết, biết tiết kiệm là mỹ đức,
quyết định chẳng lăng phí. Phải thường
nghĩ thế gian này c̣n có rất nhiều kẻ khổ
nạn, kẻ chẳng có cái ăn, cái mặc, chẳng có
nhà cửa để ở rất nhiều. Dẫu họ
không ở trước mặt, nhưng thường
nghĩ tới họ, hễ có duyên phận bèn tận tâm
tận lực giúp đỡ họ, thường nghĩ
đến người khác, phải mở rộng tâm
lượng.
Xưa kia, tôi ở Tân Gia Ba, tôi
và chín tôn giáo tại Tân Gia Ba đối xử với nhau
hết sức ḥa thuận. Bất luận tôn giáo nào
cần giúp đỡ, chúng tôi cũng tự động ra
tay giúp đỡ. Có một lần, có một nữ tu cho
tôi biết: Người bên Phi Châu rất đáng
thương, Thiên Chúa Giáo cử sang đó một đoàn
chữa bệnh, h́nh như có ba bác sĩ, mấy
người y tá sang đó giúp đỡ họ, bà ta kể
với tôi tin ấy. Khi đó, tôi tặng năm vạn
Mỹ Kim để họ thay tôi dùng làm phí tổn y tế,
bố thí thuốc men. Một tuần sau, bà ta lại
gọi điện thoại cho tôi, cho biết bên đó giao
thông vô cùng lạc hậu, rất khó khăn, có thể
tặng một cái xe cứu thương hay không? Tôi nói
được, tôi sẽ tặng cho bà một xe cứu
thương. Các tín đồ Phật môn biết chuyện
ấy đến chất vấn tôi, họ nói: “Thưa pháp
sư! Tiền của tín đồ chúng tôi kiếm
chẳng dễ, cớ sao thầy lại lấy đem cho
ngoại đạo?” Tôi hỏi: “Cái ǵ mà ngoại
đạo?” [Họ đáp]: “Thầy cho tiền Thiên Chúa
Giáo, chẳng phải là ngoại đạo ư?” Tôi
hỏi ngược lại họ: “Chúng ta có muốn
lập viện dưỡng lăo hay không?” Muốn! “Có
muốn lập cô nhi viện hay không?”
Muốn! “Chúng ta có nên mở bệnh viện hay không?”
Muốn! Người ta có bệnh khổ có cần phải
cứu kẻ ấy hay không?” Phải! “Người ta
đă phái một đội y tế đi cứu giúp, chúng
ta đầu tư một chút, tặng một ít tiền
cho họ, chúng ta đă có quyền cổ đông (shareholder) trong
ấy, có sai lầm ǵ chăng?” Họ mới thôi bắt
bẻ, bỏ đi. Do vậy, bất luận kẻ nào làm
một chuyện tốt, lợi ích xă hội, chính là chúng ta
làm. Bản thân chúng ta không có sức, bèn sanh tâm hoan hỷ,
khen ngợi kẻ ấy, hễ có sức th́ tận tâm
tận sức giúp đỡ họ, chuyện tốt mà!
Cần ǵ cứ nhất định phải chính ḿnh làm mới
là chuyện tốt, người khác làm th́ không phải, [có
cách nghĩ như vậy tức là] tâm lượng quá
nhỏ, đă trái phạm Tánh Đức. Bất luận
kẻ nào làm chuyện tốt, đúng là chuyện tốt,
ích lợi xă hội, có lợi cho chúng sanh khổ nạn,
chúng ta phải nên giúp đỡ, chẳng bàn ra tán vào. Không có
sức bèn hoan hỷ, tán thán, tuyên dương người
ta. “Tự hộ hiền
đức” [là như vậy đó].
Bốn chữ cuối trong
mười hai chữ ấy là “nhân
ái, ḥa b́nh”, đó là đạt tới chỗ cùng
cực. Mười hai chữ ấy giống như
một ṭa cao ốc có mười hai tầng, quư vị
phải biết cội rễ ở chỗ nào? Cội
rễ là hiếu, hiếu là tầng thứ nhất,
đễ là tầng thứ hai, ḥa b́nh là cao nhất. Nó có
cội rễ, có cơ sở. Quư vị đọc kinh Vô
Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật của Tịnh Tông, câu đầu tiên trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước là “hiếu
dưỡng phụ mẫu”, câu thứ hai là “phụng sự sư
trưởng”, hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng
thầy là căn cơ học Phật. Không có hai câu này,
dẫu học Phật tốt đẹp cách mấy,
[vẫn là] thiếu cội rễ, làm sao có thành tựu cho
được? Người Trung Quốc lập quốc
đă năm ngàn năm trên mặt đất, cội
rễ sâu chắc, đó là ǵ? Hiếu đễ.
Mười hai chữ ấy đă được cày
cấy trên đất báu Trung Quốc năm ngàn năm, tuy
hiện thời bị coi nhẹ, bỏ sót, căn bản
có bị lay động hay không? Không có. Thí nghiệm của
chúng tôi tại Thang Tŕ đă chứng thực. Chúng tôi
vốn cho rằng phải mất từ hai đến ba
năm thí nghiệm mới có thể thấy hiệu
quả; không ngờ từ ba đến bốn tháng đă
có hiệu quả rơ rệt, cho thấy căn bản
vẫn c̣n. Đúng là thâm căn cố đế, con
người hết sức dễ dạy. Một dải Mă
Lai và Nam Dương tiếp xúc Trung Quốc,
được văn hóa truyền thống của Trung
Quốc hun đúc, tôi nghĩ ít nhất là một ngàn
năm. V́ thế, nơi ấy cũng là phước địa,
cũng là đất báu. Đề ra mười hai
hạng mục đức hạnh ấy, mọi
người hoan nghênh, đấy là Tánh Đức.
Do vậy Hiền Hộ,
phải hộ tŕ đức của chính ḿnh là điều
trọng yếu, những điều khác chẳng trọng
yếu. Có thể hộ tŕ chính ḿnh, sẽ có thể hộ
tŕ người khác, đó là “phục
hộ chúng sanh” (lại hộ tŕ chúng sanh). Thế nào là “hộ chúng
sanh”? Giáo hóa chúng sanh. Giáo hóa nhất định phải
bằng thân hành, ngôn giáo, chính ḿnh không làm được, mà
bảo người khác làm, người ta sẽ không tin. Ắt
phải chính ḿnh làm được, quư vị mới có
thể cảm hóa người khác, đó là “tự hành, hóa
tha”, là ư nghĩa của hai chữ Hiền Hộ. Danh
hiệu này bao quát hết thảy những đồng tu tại
gia học Phật. Đây là tên của một người,
đại diện cho hết thảy các vị tại gia
học Phật, có ư nghĩa rất sâu. Ngài là đại
diện chung, mười lăm vị kia đại
diện [cho những đức] riêng biệt, c̣n vị này
là tổng đại biểu. Tại gia c̣n phải khéo
hộ tŕ tánh đức của chính ḿnh, huống hồ
xuất gia th́ càng chẳng cần phải nói nữa. Chúng
ta thấy chư Phật Như Lai, chư đại
Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, có ai chẳng học tập
như vậy? Ai nấy đều có thể thành tựu
chính ḿnh, lợi ích chúng sanh.
Tiếp đó, sách viết: “Hoặc vân Hiền Thủ”
(Hoặc c̣n gọi là Hiền Thủ). Ư nghĩa này xuất
phát từ tiếng Phạn, Bạt Đà Bà La c̣n có nghĩa
là Hiền Thủ. Hiền Thủ là “chúng hiền chi thủ” (đứng đầu
trong các bậc hiền nhân), là gương mẫu, khuôn phép
trong các vị Bồ Tát, có địa vị cao nhất
trong đại chúng, nên gọi là Hiền Thủ. “Dĩ vị cư Đẳng
Giác” (do Ngài thuộc địa vị Đẳng Giác),
ở đây nói rơ ràng, minh bạch, thân phận ǵ vậy?
Đẳng Giác Bồ Tát. Có cùng địa vị với
Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát,
Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc Bồ Tát, các Ngài đều
là Đẳng Giác Bồ Tát. Trong bốn mươi mốt
đẳng cấp, Ngài thuộc đẳng cấp thứ
bốn mươi mốt cao nhất. V́ thế, so với bốn
mươi địa vị Pháp Thân Bồ Tát trước
đó, địa vị của các Ngài cao nhất,
Đẳng Giác cao nhất, nên là thủ tọa của
họ, mang ư nghĩa này. “Khả
kiến Hiền Hộ Chánh Sĩ, năi thị sanh ư
Vương Xá thành, vị đăng Đẳng Giác chi
tại gia Bồ Tát” (Có thể
thấy Hiền Hộ Chánh Sĩ thị hiện sanh trong
thành Vương Xá, là vị tại gia Bồ Tát thuộc
địa vị Đẳng Giác). Thật sự có
vị này, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, hàng
tại gia học Phật cũng chứng đắc
địa vị Đẳng Giác. Đầu thời Dân Quốc,
người sáng lập Chi Na Nội Học Viện là Âu
Dương Cánh Vô đại sư, người đời
sau tông xưng ông ta là “đại sư”, chứ ông ta là
tại gia cư sĩ. Tuy thời gian hoạt động
của Chi Na Nội Học Viện không dài, chỉ có hai
năm, nhưng hai năm ấy thật sự có công đức,
kéo dài huệ mạng của Phật pháp. Đầu
thời Dân Quốc, những đại cư sĩ tại
gia, như cư sĩ Giang Vị Nông và hàng xuất gia, ngay
cả pháp sư Thái Hư, pháp sư Thái Hư là học sinh
dự thính trong Nội Học Viện, cư sĩ
Vương Ân Tường[11],
những vị đại đức trứ danh ấy
đều xuất thân từ Phật Học Viện. Ông ta
(Âu Dương Cánh Vô) nói rất rơ ràng, Phật pháp là sư
đạo, sư đạo là giáo dục. Ông ta có lần
giảng diễn, phát biểu vào năm Dân Quốc thứ
mười hai (1923) tại Đệ Tứ Trung Sơn
Đại Học, lần giảng diễn ấy đă
chấn động toàn quốc vào thời đó.
Đề tài giảng diễn là “Phật
pháp không phải là tôn giáo hay triết học, mà là nhu
cầu tất yếu cho hiện thời”, đề tài
giảng diễn như vậy. Đệ Tứ Trung
Sơn Đại Học nay là đại học sư
phạm Nam Kinh, ở ngay thành phố Nam Kinh. Đă là sư
đạo th́ trong giáo học thầy lớn nhất, tôn
sư, trọng đạo, hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng. Học tṛ chẳng có
tâm tôn kính thầy, sẽ chẳng học được
ǵ. Đúng như Ấn Quang đại sư đă nói: “Một phần thành kính
được một phần lợi ích, mười
phần thành kính được mười phần lợi
ích”. Thầy dạy quư vị, quư vị có thể
đạt được bao nhiêu chẳng do thầy, mà do
tâm cung kính của chính ḿnh. Quư vị có thể đạt
được bao nhiêu sẽ tỷ lệ thuận với
tâm cung kính của chính ḿnh, đạo lư như thế
đó!
Đặc
biệt nói rơ, quư vị học Phật, thầy là lớn
nhất. Tôi là người xuất gia, thầy tôi là tại
gia, hăy nhớ, thầy là người lớn nhất,
thấy thầy phải đảnh lễ ba lạy
giống như thấy Phật. Thầy là cư sĩ, xác
thực như thế. Trong thời đại này, chừng
hơn tám mươi năm trước, ông ta đă nói ra
câu ấy. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế đă
biểu diễn cho chúng ta thấy. Chúng ta chỉ biết
Thích Ca Mâu Ni Phật, c̣n có một vị Phật tại gia,
nhưng mọi người quên khuấy. Thân phận
[của vị thầy] tại gia ấy và địa
vị của Thích Ca Mâu Ni Phật giống nhau, tại gia
Phật là cư sĩ Duy Ma Cật, cùng thời đại với
Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai vị Phật đồng thời,
một tại gia, một xuất gia. Quư vị thấy
học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng ta xem kinh
thấy gần như mỗi bộ kinh đều có hai
vị là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Xá Lợi
Phất tượng trưng trí huệ đệ nhất,
Mục Kiền Liên tượng trưng thần thông
đệ nhất. Cư sĩ Duy Ma giảng kinh, Thích Ca Mâu
Ni Phật sai hai người học tṛ ấy đi nghe
kinh. Họ trông thấy cư sĩ Duy Ma, vừa
đảnh lễ ba lạy, vừa đi nhiễu ba ṿng theo
chiều phải, lễ tiết hoàn toàn giống như
gặp A Di Đà Phật. Đức Phật từ bi, vào
lúc ấy diễn xuất cho chúng ta thấy, dạy
người đời sau chúng ta biết tôn sư trọng
đạo, đặc biệt dạy người xuất
gia: Tại gia có người tu hành khai ngộ, minh tâm
kiến tánh, đắc đạo, chứng quả! Họ
đạt tới địa vị ấy, chính là Phật,
chính là thầy. Chúng ta đối với người
ấy cung kính giống như đối với Phật,
chớ nên hạ thấp, khinh dễ người ấy;
nếu làm như vậy th́ đă hoàn toàn sai mất rồi!
Trong lần diễn giảng
ấy, Âu Dương đại sư đă nói rất rơ
ràng, minh bạch. Tuy vậy, chúng tôi là hàng hậu sanh,
lần diễn giảng phát biểu ấy, tôi c̣n chưa ra
đời. Tôi sanh năm Dân Quốc 16 (1927), ông ta giảng
diễn vào năm Dân Quốc 12 (1923). Chúng tôi đọc bài
diễn thuyết, hiểu dụng ư của ông ta:
Người xuất gia phải học khiêm hư. Tại
gia cư sĩ có đức năng, tu hành tốt
đẹp hơn ta th́ ta phải nên trống ḷng học
tập người ấy, coi người ấy là
thầy th́ mới có thể thành tựu chính ḿnh. Do vậy,
trong bộ kinh này, càng hiển thị thâm ư ấy. Quư
vị thấy đối với hàng xuất gia Bồ Tát
chỉ nêu ra ba vị, tại gia Bồ Tát nêu lên
mười sáu vị. Mười sáu vị này hoàn toàn b́nh
đẳng với ba vị trước, đều là
Đẳng Giác Bồ Tát. Bởi lẽ, thuở Phật
tại thế, quả thật có Hiền Hộ Chánh Sĩ
sanh tại thành Vương Xá, là tại gia Bồ Tát đă
chứng địa vị Đẳng Giác, trên thực
tế đều là tại gia Phật. Ngài Duy Ma đại
diện cho tại gia Phật, thuộc địa vị
Diệu Giác. V́ thế, tại gia có thể tu hành thành
Bồ Tát, thành Phật. Đó chính là như Quán Thế Âm
Phổ Môn Phẩm đă nói: “Nên
dùng thân ǵ để độ được bèn hiện
thân ấy”. Đặc biệt là trong thời
đại hiện tại, hiện thân làm người tại
gia giáo hóa chúng sanh dễ dàng, so với người xuất
gia dễ dàng hơn nhiều. Tại gia có thể kinh doanh
các thứ sự nghiệp khác nhau, có thể khởi tác
dụng xướng suất trong các nghề nghiệp khác
nhau, đó chính là ư nghĩa của Hiền Thủ.
Chúng ta lại xem lời khai
thị của cụ Hoàng Niệm Tổ kế đó: “Nhược án kim kinh biệt ư”
(Nếu xét theo ư riêng trong kinh này), kinh này là kinh Vô
Lượng Thọ, chuyên giảng pháp môn Tịnh Tông,
dạy chúng ta niệm Phật đới nghiệp văng sanh.
Dựa theo bộ kinh này để thấy ư nghĩa
của giảng ṭa lần này. “Cứ
Ban Châu Tam Muội Kinh” (theo kinh Ban Châu Tam Muội), trong
kinh Ban Châu Tam Muội có một đoạn như thế
này: “Thử Bạt Đà Ḥa”
(ông Bạt Đà Ḥa này), có cùng ư nghĩa với âm tiếng
Phạn Bạt Đà Bà La trong phần trước, chỉ
là phiên dịch khác nhau, âm đọc cũng không sai biệt
cho lắm. Bạt Đà Bà La và Bạt Đà Ḥa chẳng
khác nhau lắm, đều có nghĩa là Hiền Hộ.
Bạt Đà Ḥa Bồ Tát, “thị
Niệm Phật tam-muội phát khởi nhân” (là
người phát khởi Niệm Phật tam-muội), quư
vị thấy Ngài tu ǵ? Ngài chuyên tu Tịnh Độ, là
người khởi đầu Niệm Phật
tam-muội, thuở đức Phật tại thế, “thân kiến Di Đà” (đích
thân thấy Phật Di Đà), Ngài đă thấy A Di Đà
Phật. Kinh chẳng nói rơ sự đích thân trông thấy
ấy là thấy trong Định, hay thấy trong mộng,
có lúc quả thật đang trong lúc hoàn toàn tỉnh táo mà
thấy, đích thân thấy Phật Di Đà. “Kim cố lai thử thắng
hội, trợ hiển Niệm Phật tam-muội vô
thượng pháp môn” (nay đến hội thù thắng
này để giúp hiển thị pháp môn Niệm Phật
tam-muội vô thượng). Ngài hiện diện trong
hội này, lại c̣n được kể tên đầu
tiên, chúng ta biết hội này giảng điều ǵ?
Giảng niệm Phật bậc nhất. Ngài là
người phát khởi Niệm Phật tam-muội,
biểu thị niệm Phật bậc nhất. Ngài
được kể tên đầu tiên trong đại
hội, pháp hội lần này nhằm giảng niệm
Phật là bậc nhất, biểu thị ư nghĩa này.
Vị Bồ Tát thứ hai,
tức vị tại gia Bồ Tát thứ hai, “Thiện Tư Duy Bồ Tát,
Đường dịch vi Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ
Tát” (Thiện Tư Duy Bồ Tát, bản dịch
đời Đường ghi là Thiện Tư Duy Nghĩa
Bồ Tát), bản dịch đời Đường
nằm trong kinh Đại Bảo Tích. Trong Vô Lượng
Thọ Như Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích,
danh xưng của Ngài được phiên dịch là
Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ Tát. “Ngụy dịch”, bản dịch đời
Ngụy là bản được lưu hành phổ biến
nhất tại Nhật Bản. Các đại đức
Nhật Bản vào thời cổ đọc kinh Vô
Lượng Thọ quá nửa dùng bản này, tức
bản dịch của ngài Khang Tăng Khải. “Ngụy” ở đây là nhà Tào
Ngụy trong thời đại Tam Quốc. “Án Tứ Đồng Tử Kinh Hiện Sanh Phẩm”
(xét theo phẩm Hiện Sanh trong Tứ Đồng Tử
Kinh[12]),
trong kinh ấy có giới thiệu, “Thiện Tư Duy đẳng Chánh Sĩ, thị tha
phương thế giới lai thử thị hiện chi
tại gia Bồ Tát” (các vị Chánh Sĩ như
Thiện Tư Duy v.v... từ thế giới phương
khác đến cơi này thị hiện làm hàng tại gia
Bồ Tát), vị Bồ Tát này không thuộc thế giới
Sa Bà, mà là khách, từ thế giới phương khác
đến, cũng đến tham gia pháp hội lần này,
hiển thị sự thù thắng của pháp hội
lần này, cảm động các Bồ Tát ở những
thế giới phương khác đến tham dự.
“Kinh
vân: Đông phương khứ thử Phật sát thập
thiên câu-chi, hữu nhất thế giới danh Bảo Minh”
(kinh dạy: “Từ phương Đông của cơi Phật
này đi qua mười ngàn câu chi cơi Phật, có một
thế giới tên là Bảo Minh”). Thế giới này
của chúng ta gọi là Sa Bà, mỗi thế giới có
một vị Phật giáo hóa trong ấy. Mỗi thế
giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật. “Phật danh Sư Tử Minh Thanh
Như Lai. Hữu nhất Bồ Tát danh Thiện Tư
Nghị” (Phật hiệu là Sư Tử Minh Thanh Như
Lai, có một Bồ Tát tên là Thiện Tư Nghị),
đấy chính là ngài Thiện Tư Duy đang
được nói đến ở đây. “Ứng thác lai đáo thử độ, hóa sanh A Xà
Thế vương cung nội” (thác
sanh đến cơi này, hóa sanh trong cung vua A Xà Thế),
Ngài đến thế giới này để đầu thai,
sanh trong cung vua A Xà Thế. Đây gọi là Ứng Thân,
chẳng phải là Hóa Thân, ứng hóa trong thế gian này, là
Bồ Tát từ phương khác đến. Danh hiệu
Thiện Tư Nghị và Thiện Tư Duy có ư nghĩa
giống nhau, nói rơ ư niệm và tâm thái của Bồ Tát
thuần tịnh, thuần thiện. Thiện ở đây
chẳng phải là thiện trong “thiện - ác”, mà có ư
nghĩa giống như câu “nhân
tánh bổn thiện” trong Tam Tự Kinh, thiện là
như vậy đó. Thiện trong “thiện - ác” có tŕnh
độ rất thấp, trong lục đạo có
thiện - ác; ra khỏi lục đạo, thiện - ác
chẳng c̣n, thiện - ác không có th́ mới gọi là
Tịnh Độ. V́ vậy, họ (những người đă
thoát khỏi lục đạo) có nhiễm và tịnh,
chẳng có thiện và ác. So với lục đạo
để nói, [cảnh giới] họ [an trụ] là
Tịnh Độ, lục đạo là nhiễm ô.
Thiện ở đây c̣n cao hơn [so với Thiện trong]
Tịnh Độ, trong Phật pháp gọi cảnh giới
ấy là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật
Như Lai, đấy mới là chân thiện. Do các Ngài (các
vị Bồ Tát thuộc nhóm Hiền Hộ Bồ Tát) là
Đẳng Giác Bồ Tát, nhất định thuộc vào
tầng bậc cao nhất, nên chúng ta không thể dùng
định nghĩa [về Thiện] trong lục
đạo phàm phu để giải thích, [nếu hiểu
theo ư nghĩa so sánh với lục đạo phàm phu] sẽ
là sai lầm!
Tiếp đó nói: “Nam phương khứ thử
ngũ bách ức thế giới, hữu nhất thế
giới, Phật danh Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai,
hữu nhất Bồ Tát danh Tịch Tĩnh Chuyển” (Nơi phương Nam cách đây năm
trăm ức thế giới có một thế giới,
Phật hiệu Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, có
một vị Bồ Tát tên là Tịch Tĩnh Chuyển),
đây chính là ngài Huệ Biện Tài được nhắc
đến trong kinh này, Huệ Biện Tài được
gọi là Tịch Tĩnh Chuyển [trong kinh Tứ
Đồng Tử]. “Ư
thử Xá Vệ thành nội, sanh đại cư sĩ
Tự Sư Tử gia. Tây Phương khứ thử quá bát
ức bách thiên Phật sát, Lạc Âm Như Lai sở,
hữu nhất Bồ Tát danh Vô Phan Duyên” (trong thành Xá
Vệ này, sanh trong nhà cư sĩ Tự Sư Tử. Ở phương Tây, cách khỏi đây tám
ức trăm ngàn cơi Phật, ở chỗ đức
Lạc Âm Như Lai có một vị Bồ Tát tên Vô Phan Duyên),
[Vô Phan Duyên] chính là ngài Quán Vô Trụ đang được
nói đến ở đây. “Ư
thử Ba La Nại quốc, hóa sanh đại cư sĩ
Thiện Quỷ gia. Bắc phương khứ thử
lục vạn tứ bách thiên ức Phật độ,
trụ Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai sở,
hữu nhất Bồ Tát danh Khai Phu Thần Đức”
(hóa sanh vào nhà đại cư sĩ
Thiện Quỷ trong nước Ba La Nại này. Về
phương Bắc, cách đây sáu vạn bốn trăm
ngàn ức cơi Phật, ở chỗ đức Trụ
Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai có một vị
Bồ Tát tên là Khai Phu Thần Đức), [Khai Phu Thần
Đức] chính là ngài Thần Thông Hoa đang
được nói đến ở đây. “Sanh thử Tỳ Da Ly thành đại tướng
Sư Tử gia. Thử tứ đồng tử dữ vô
lượng đại chúng, cộng lai Sa La Song Thụ
sở, cung kính cúng dường” (sanh
trong nhà đại tướng Sư Tử của thành
Tỳ Gia Ly này. Bốn đồng tử này cùng với vô
lượng đại chúng đến rừng Sa La Song
Thọ cung kính cúng dường). Đây là ghi chép
về các vị Bồ Tát ở phương khác, các Ngài là
Đẳng Giác Bồ Tát nơi phương khác, có duyên
rất sâu với Thích Ca Mâu Ni Phật, hiển thị
điều thường được nói trong kinh: “Một vị Phật xuất
thế, ngàn vị Phật ủng hộ”. Mọi
người thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đến quả
địa cầu này thị hiện thành Phật
độ chúng sanh, chư Phật Như Lai, Đẳng
Giác Bồ Tát có duyên phận sâu đậm với Thích Ca Mâu
Ni Phật thảy đều theo đến. Thích Ca Mâu Ni
Phật giáng sanh tại nước Ca Tỳ La Vệ, trong
vương cung của đại vương Tịnh
Phạn, những vị ấy mỗi vị t́m một chỗ,
đều cùng giáng sanh, dùng đủ thứ thân phận
bất đồng, có vị là thân phận Bồ Tát, có
vị là thân phận Thanh Văn, có vị là thân phận
Duyên Giác, có vị mang thân phận xuất gia, có vị mang
thân phận tại gia, cũng có vị mang thân phận
quốc vương, đại thần, đủ mọi
thân phận khác biệt đến hộ tŕ Thích Ca Mâu Ni
Phật. Mọi người đến diễn một
vở tuồng, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chánh, các
vị kia đều đóng vai phụ, khiến cho vở
tuồng được diễn viên măn, biểu diễn
sống động, hoạt bát, v́ sao? Để giáo hóa
chúng sanh. Ở đây, chúng ta thấy điều ǵ? Ḥa hài,
chẳng ghen ghét, chẳng tranh danh đoạt lợi. Ai làm
người cầm đầu, lănh đạo cũng
được, cũng hoan hỷ, chúng ta phải học
điều này. Mục tiêu và phương hướng chung chỉ
có một, mong mỏi giúp cho những chúng sanh mê hoặc, c̣n
chưa giác ngộ phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui, nhắm tới mục tiêu này. Mục
tiêu và phương hướng giống nhau, nên mọi
người đều cùng đến. Mấy vị này
thường được đức Phật nhắc
tới trong kinh điển, lại c̣n là những vị
cư sĩ tu hành chứng quả, cũng rất nổi
tiếng tại Ấn Độ thuở ấy, hễ
nhắc tới mọi người đều biết.
Lại xem tiếp: “Hựu thử hạ Quang Anh
Bồ Tát đẳng tứ Chánh Sĩ, như Phật Danh Kinh
đệ thất thuyết, Quang Anh, Huệ Thượng” (Thêm nữa, bốn
vị Chánh Sĩ như Quang Anh Bồ Tát v.v... tiếp theo
đó như quyển bảy kinh Phật Danh[13]
có nói: Quang Anh, Huệ Thượng), Huệ
Thượng ở đây là Trí Thượng. “Tịch Căn, Nguyện Huệ
tứ Bồ Tát, tùng tứ phương Phật độ
lai tập thử giới chi tướng” (Tịch Căn, Nguyện Huệ, bốn
vị Bồ Tát, từ cơi Phật ở bốn
phương nhóm đến cơi này), hóa thân đến!
Trong phần trước, ta thấy Ứng Thân, đến
thế gian này đầu thai, gọi là Ứng Thân, hoặc
là Hóa Thân. “Hựu Văn Thù
Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh diệc thuyết, thử
tứ Chánh Sĩ tùng tứ phương lai, đồng
thượng sở thuyết” (Hơn nữa, kinh Văn
Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh cũng nói bốn vị Chánh
Sĩ này từ bốn phương đến, giống
như trong kinh Tứ Đồng Tử đă nói). Cũng
có thể nói là trong kinh, đức Phật cũng đă
nhiều lần giới thiệu các vị này. “Hựu Nguyệt Đăng Tam
Muội Kinh đệ tam thuyết: - Hương
Tượng Bồ Tát tùng Đông phương A Súc Phật,
dữ na-do-đa Bồ Tát, cộng lai vấn tấn Thích
Ca Mâu Ni Phật” (Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội,
quyển thứ ba lại nói: “Hương Tượng
Bồ Tát từ cơi của A Súc Phật ở phương
Đông cùng với na-do-đa (na-do-tha) Bồ Tát cùng
đến chào hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật”). Trong
mười sáu vị trên đây, ngài Hương
Tượng xếp thứ mười hai. Ngài từ cơi
của Đông phương A Súc Phật, là đệ
tử của A Súc Phật, dẫn theo rất nhiều
người. Chúng ta thường dịch Na-do-đa (Nayuta) là
Vô Số, số lượng nhiều lắm. Ngài dẫn
theo Bồ Tát nhiều dường ấy, cùng nhau thưa
hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi chào Thích Ca Mâu Ni Phật,
bèn thỉnh an Thích Ca Mâu Ni Phật. “Dĩ thượng Hiền Hộ đẳng
nhất trực đáo Hương Tượng” (Trên
đây, từ Hiền Hộ cho đến Hương
Tượng Bồ Tát), tổng cộng là mười
vị. “Kỳ dư lục
nhân như Chân Giải vân” (c̣n sáu vị kia th́ như sách
Chân Giải nói), Chân Giải là chú giải kinh Vô
Lượng Thọ của pháp sư Đạo Ẩn
người Nhật, bản chú giải ấy có tên là Chân
Giải. Trong Tịnh Tông Nhật Bản, Sư hết
sức nổi tiếng, bản chú giải của Sư
cũng được truyền đến Trung Quốc. Do
vậy, tổ sư đại đức của Tịnh
Tông Trung Quốc cũng tham khảo bản chú giải
của Sư, đây là bản chú giải kinh Vô Lượng
Thọ hay khéo, rất nổi tiếng. “Kỳ dư Trí Tràng” (ngoài ra, Trí Tràng), tức là
Bảo Tràng. “Bảo Anh, Trung
Trụ, Chế Hạnh, Giải Thoát đẳng”
(Bảo Anh, Trung Trụ, Chế Hạnh, Giải Thoát
v.v...), mấy vị này, “tuy
vị kiến kinh chứng” (tuy chưa thấy kinh
văn khác để làm chứng), khi đức Phật nói
kinh, chẳng nhắc đến tên các Ngài, nhưng trong kinh
Vô Lượng Thọ này, đức Phật đă nói
đến. “Chuẩn tiền
tư chi” (chuẩn theo những điều trên đây
để suy luận), chúng ta dùng tiêu chuẩn phía
trước cũng có thể biết, “tất ưng thị tha phương lai đại
sĩ dă” (nhất định là các đại sĩ
từ phương khác đến), nhất định
phải là từ thế giới phương khác
đến đây, tham gia một lần hoạt
động của Thích Ca Mâu Ni, tức đại hội
kinh Vô Lượng Thọ. “Án
Chân Giải sở chú thị Ngụy dịch” (Xét ra, sách
Chân Giải dùng bản dịch đời Ngụy
để chú giải), tức bản của ngài Khang
Tăng Khải, bản dịch của ngài Khang Tăng
Khải rất nổi tiếng tại Nhật Bản. “Ngụy dịch cẩn liệt
thập ngũ Chánh Sĩ chi danh” (bản Ngụy
dịch chỉ kể tên mười lăm vị Chánh
Sĩ), ở đây là mười sáu vị, bản
Ngụy dịch chỉ có mười lăm, kể tên
mười lăm vị. “Kỳ
trung khuyết Huệ Biện Tài Bồ Tát, thử Bồ
Tát kiến ư Đường dịch. Chân Giải dĩ
vi Tín Huệ tức Huệ Biện Tài” (trong ấy,
thiếu Huệ Biện Tài Bồ Tát, vị Bồ Tát này
thấy ghi trong bản dịch đời Đường.
Sách Chân Giải cho rằng Tín Huệ chính là Huệ Biện
Tài). Hiện thời, Tín Huệ và Huệ Biện Tài tách
thành hai người, chia ra làm hai người, nên mới “hợp thập lục chi
số” (gộp thành con số mười sáu). V́
mười sáu nhằm biểu thị pháp trong Mật Tông,
mười sáu tượng trưng cho sự viên măn,
chẳng phải là con số thật sự, mà nhằm
biểu thị pháp. “Cố tri
Tín Huệ Bồ Tát diệc ưng như Bảo Tràng
đẳng Chánh Sĩ, diệc thị tha phương lai
giả” (Nên biết Tín Huệ Bồ Tát cũng giống
các vị Chánh Sĩ như Bảo Tràng v.v... cũng từ
phương khác đến). Ngài chẳng phải là Bồ
Tát trong thế giới Sa Bà, mà thuộc vào số những
vị Bồ Tát ở phương khác đến tham
dự pháp hội lần này.
“Chân
Giải ư thử, cánh hữu xiển minh”
(Đối với điều này, sách Chân Giải càng
giảng rơ). Ở đây, có trích lục đoạn văn
trong sách Chân Giải: “Văn
viết: Sơ liệt Hiền Hộ đẳng thập
lục Chánh Sĩ giả, chương thử pháp bất
dĩ xuất gia phát tâm vi bổn” (Nguyên văn:
“Đầu tiên nêu lên nhóm Hiền Hộ mười sáu
vị Chánh Sĩ để chỉ rơ pháp này chẳng
lấy phát tâm xuất gia làm gốc”). Chương (彰) là hiển
thị (nêu rơ, chỉ rơ), chương minh (tỏ bày rơ ràng)
pháp môn này chẳng lấy phát tâm xuất gia làm căn
bản, mà cũng chẳng phải chủ yếu v́ họ
(người xuất gia) mà nói. “Thứ
liệt tha phương lai giả, chương thập
phương Phật độ trung, tất dĩ thử
pháp vi xuất thế đại sự cố, cộng lai
tinh tấn cầu thử pháp. Thử nghị thậm
đắc kinh chỉ” (Kế đến, nêu ra các
vị đến từ phương khác, ngụ ư: Trong các
cơi Phật khắp mười phương đều dùng
pháp này làm đại sự xuất thế, cùng tinh tấn
đến cầu pháp này. Lời bàn định ấy
rất phù hợp với tông chỉ của kinh). Không
lấy xuất gia th́ lấy ǵ làm gốc? Lấy tại
gia làm gốc. Đặc biệt trong chín ngàn năm về
sau trong thời Mạt Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, có
thể là người xuất gia càng ngày càng ít, kẻ
tại gia tu hành ngày càng đông. Người tại gia tu
hành tu pháp môn nào đạt thành tựu? Pháp môn này! Chắc
chắn thành tựu. Những vị tại gia Bồ Tát này
thị hiện, chứng minh tại gia có thể thành
Phật, có thể thành Đẳng Giác, các Ngài đến
làm mẫu, khiến cho quư vị sanh khởi tín tâm. Sách Chân
Giải nói kiểu này rất tương ứng với
tông chỉ của kinh. Tiếp theo là “cái tại gia tu hành, tối nghi tŕ danh niệm
Phật dă” (v́ tu hành tại gia th́ tŕ danh niệm Phật
là thích hợp nhất). Đầu tiên là ngài Hiền Hộ
nêu gương cho chúng ta. “Thập
phương đại sĩ tất lai thính pháp, biểu
thử pháp thù thắng, thật vi đại sự nhân
duyên cố” (mười phương đại sĩ
ắt đều đến nghe pháp, biểu thị pháp này
thù thắng, thật sự là đại sự nhân duyên).
Đại sự là liễu sanh tử, thoát tam giới,
chứng Bồ Đề, đắc đại quả;
đấy là đại sự nhân duyên.
Kế đó, Hoàng lăo cư
sĩ nghị luận: “Hựu
Hiền Hộ biểu Như Lai thiện hộ niệm
chư Bồ Tát” (lại nữa, Hiền Hộ biểu
thị Như Lai khéo hộ niệm các Bồ Tát). Quả
thật danh hiệu có ư nghĩa này. Như Lai có hai ư
nghĩa, nói theo Lư là tự tánh. Tư tưởng và ngôn
hạnh của con người tương ứng với
tánh đức, th́ trí huệ và đức tướng trong
tự tánh sẽ thường hiện tiền; v́ sao? Tâm tâm
tương ấn, hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng; kinh Hoa Nghiêm nói “tâm hiện, thức biến”.
Tự tánh có thể nâng cao năng lượng, nó là căn
cứ lư luận để nâng cao cảnh giới của
chúng ta, đấy là ư nghĩa thứ nhất. Thứ hai,
Như Lai là Thích Ca Mâu Ni Phật, là A Di Đà Phật, là những
vị đă tu hành chứng đắc địa vị
Diệu Giác. Ư thức của chúng ta chính là “niệm
đầu” (ư niệm), ư niệm chẳng thể nghĩ
bàn. Từ Hoàn Nguyên Quán, chúng ta thấy: Bất luận
hữu tâm hay vô tâm, ư niệm là dao động. Dao
động hết sức yếu ớt, nhưng tốc
độ của nó quá nhanh, chẳng khởi dao
động th́ thôi, hễ dao động dấy lên, lập
tức trọn khắp pháp giới. Chúng ta chẳng có cách
nào tưởng tượng chuyện này, không ngờ các nhà
khoa học Lượng Tử hiện thời đă phát
hiện, họ nói hết sức gần gũi với cách
giảng của Thích Ca Mâu Ni Phật, họ nói sự dao
động ấy cũng trọn khắp pháp giới. Đă
là trọn khắp pháp giới, chư Phật Như Lai
trong mười phương pháp giới đều
nhận được tin tức ấy. Đă nhận
được, há lẽ nào chẳng gia tŕ? Như vậy
th́ tin tức phát ra là Cảm, chư Phật, Bồ Tát
hồi đáp là Ứng; cảm ứng đạo giao
chẳng thể nghĩ bàn. Tôi tin tưởng chắc
chắn là trong ṿng năm năm, Lượng Tử Lực
Học sẽ rất phổ biến, đây là chuyện
tốt, sẽ khiến cho người b́nh phàm chúng ta sanh
khởi tín tâm khôn sánh. Trên địa cầu có lắm tai
nạn như vậy, có thể hóa giải những tai
nạn ấy hay không? Có thể! Lượng Tử Học
đă trao cho chúng ta lư luận, lư luận ấy ở ngay
trong kinh Đại Thừa, từ ba ngàn năm trước
Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói tới rồi. Xưa nay
đều nói như vậy, có thể thấy điều
ấy là thật, chẳng giả. V́ thế, chỉ
cần thay đổi ư niệm, vấn đề bèn
được giải quyết.
Bởi lẽ, vào nửa sau
năm ngoái, tôi xem đĩa CD
của bà Lưu Tố Vân. Đó là [một đĩa ghi
lại] cuộc săn tin của một kư giả báo chí,
chẳng nhằm điều tra bà ta. Người ấy
đi săn một tin khác ở miền Đông Bắc, nghe
có chuyện lạ lùng như thế này: Một
người mắc chứng Hồng Ban Lang Sang nghiêm
trọng ngần ấy, nghiễm nhiên không cần thuốc
men, cũng chẳng tiêm thuốc, do niệm Phật mà lành
bệnh. Cảm thấy lạ lùng, bèn đến phỏng
vấn bà ta. Tôi xem cuộc phỏng vấn được
ghi h́nh nửa giờ, đó là ǵ? Ư niệm, hoàn toàn
tương ứng với cách nói của Phật và của
các nhà Lượng Tử Lực Học. Bệnh tật
nặng nề ngần ấy, bà ta chẳng bận tâm. Chư
vị phải biết, nếu nhiễm bệnh,
thường bận tâm về căn bệnh, sẽ
rất khó lành, cuối cùng là một con đường
chết mà thôi! Người chẳng có bệnh tật,
cơ thể rất khỏe mạnh, thường nghĩ
chỗ này đau, chỗ kia nhức, chắc chắn
sẽ sanh bệnh! Hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng, quư vị nghĩ đến bệnh tật
mỗi ngày, làm sao chẳng thể không ngă bệnh? Trong quá
khứ, tôi có một người bạn, là bạn xuất
gia. Thầy ấy xuất gia từ nhỏ, bị quân
đội bắt làm lính, không có cách nào khác! Do vậy, theo
quân đội đến Đài Loan, thầy ấy mong
thoát khỏi quân ngũ để tiếp tục cuộc
sống xuất gia. Làm cách nào đây? Tuổi quá trẻ,
mỗi ngày bèn nghĩ ḿnh bị bệnh tim nặng.
Thầy ấy nghĩ như thế chưa đầy
một năm, quả thật, khám sức khỏe thấy
bị bệnh tim. Do vậy, [quân đội] cho giải
ngũ, thoát khỏi quân đội, nhưng bệnh tim
cả đời chẳng lành, hại thầy ấy
suốt đời, từ tâm tưởng sanh đấy
mà! Khi ấy, chúng tôi tuổi trẻ, chẳng biết
đạo lư này trong Phật pháp. Nếu biết
đạo lư này, khuyên bảo thầy ấy, hăy khôi
phục ư niệm b́nh thường, chẳng c̣n nghĩ
bị bệnh tim nữa, hằng ngày nghĩ đến A
Di Đà Phật, bệnh tim sẽ chẳng c̣n, bệnh
sẽ chẳng đeo theo nữa! Tâm tưởng sự thành!
Mỗi ngày nghĩ tới A Di Đà Phật, trong
tương lai quư vị sẽ làm Phật! Mỗi ngày
nghĩ tới bệnh tật, chắc chắn quư vị
sẽ bị bệnh nặng. Phải hiểu đạo
lư này!
Thuở trước, tôi ở
Mỹ, rất ít bị bệnh, có một lần bị
cảm, đi bác sĩ, bác sĩ là người Hoa, nói chuyện
với tôi cũng rất hợp ư. Có một ngày tôi bảo
ông ta: “Bệnh lành không phải do thầy thuốc chữa
lành”. Ông ta rất kinh ngạc, hỏi v́ sao? Tôi nói: “Niềm
tin chiếm tới bảy mươi phần trăm, bác
sĩ [chữa trị] chiếm ba mươi phần
trăm. Người bệnh tin tưởng bác sĩ, bác
sĩ tin tưởng người bệnh, bệnh ấy
rất dễ chữa lành, tín tâm mà! Nếu bác sĩ hoài nghi
người bệnh, người bệnh cũng nghi
ngờ bác sĩ, nghi ngờ thuốc thang, bệnh ấy
chỉ có nặng thêm, chẳng thể b́nh phục tốt
đẹp được!” Ông ta nghe xong, cảm thấy
rất có lư. Đúng là như vậy, chẳng sai chút nào! Tín
tâm làm chủ tể hết thảy, giống như
hiện thời các nhà Lượng Tử Lực Học
rất khẳng định bảo chúng ta: Ư niệm,
năng lượng chẳng thể nghĩ bàn, ư niệm
làm chủ tể hết thảy. Thậm chí ư niệm có
thể thay đổi quỹ đạo của tinh cầu
trong vũ trụ, có năng lượng to lớn như
thế. Bản thân mỗi cá nhân đều có ư niệm,
nhưng vấn đề là phải tập trung, sức
mạnh mới lớn. Ư niệm của chúng ta phân tán,
suốt ngày suy nghĩ loạn xạ, nên sức mạnh
của nó cũng rất yếu ớt; do vậy, tu
Định, Định là ǵ? Định là tập trung ư
niệm. Quư vị thấy trong kinh Di Giáo, đức
Phật đă nói: “Chế tâm
nhất xứ, vô sự bất biện” (chế tâm
một chỗ, không chuyện ǵ chẳng làm
được). Câu này rất quan trọng. Quư vị có
thể tập trung ư niệm, tập trung tại một
chỗ, không chuyện ǵ chẳng làm được. Chúng ta
muốn hóa giải hết thảy những tai nạn trên
địa cầu, tập trung ư niệm sẽ làm
được. V́ thế, kỳ đảo có hiệu
quả, chẳng phải là không có hiệu quả. Lúc
kỳ đảo, ư niệm phải tập trung th́ mới
có thể nẩy sanh tác dụng. Nếu ư niệm không
tập trung, kỳ đảo sẽ chẳng thể sanh ra
hiệu quả. Đều có đạo lư, chẳng
phải là mê tín. Do vậy, Hiền Hộ biểu thị
Như Lai khéo hộ niệm chư Bồ Tát, dùng ǵ
để khéo hộ niệm? Thiện là tốt nhất,
hộ niệm tốt nhất, đối với các vị
Bồ Tát này, “Nhất Thừa
nguyện hải, lục tự hồng danh, tam căn
phổ bị, vạn loại tề thâu” (biển
nguyện Nhất Thừa, sáu chữ hồng danh, thích
hợp khắp ba căn, gồm thâu muôn loài), [dùng] bốn
câu này [để “thiện hộ niệm”].
Thuở tôi c̣n trẻ, tôi
nhớ đă giảng kinh điển Tịnh Độ là
bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, tôi tham
khảo bản chú giải của pháp sư Quán Đảnh
thuộc thời đại Càn Long nhà Thanh trước kia.
Trong chú giải, Ngài có nói một câu: Chúng ta gặp khó
khăn, cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ, dùng những
phương pháp trong Phật giáo để hóa giải tai
nạn. Ngài nói: Nghiệp chướng của quư vị
rất nặng, hết thảy kinh giáo sám pháp cũng
chẳng có cách nào tiêu trừ nghiệp chướng của
quư vị được, phương pháp ǵ cũng đă
dùng hết cả rồi, vẫn chẳng thể tiêu
trừ, cuối cùng c̣n có một phương pháp, khẳng
định có thể tiêu trừ, phương pháp ǵ
vậy? Một câu A Di Đà Phật, nhất tâm chuyên
niệm. Khi ấy, chúng tôi đọc chú giải thấy
Ngài viết như vậy, không tin, tuy không phản đối,
cũng giới thiệu lời Ngài nói, nhưng chẳng tin
tưởng điều ấy, [v́] không liễu giải
đạo lư. Sau này, chúng tôi học kinh Hoa Nghiêm, học
tập Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư
mới hoảng nhiên đại ngộ. Lại thấy
Lượng Tử Lực Học hiện đại
cũng nói như vậy, ư niệm tập trung, sức
mạnh ấy rất lớn, tập trung ở chỗ nào?
Tập trung trong một câu A Di Đà Phật, sáu chữ hồng
danh, hoặc bốn chữ đều được. V́
sao? Càng đơn giản, hiệu quả càng lớn.
Một câu Phật hiệu thật sự hữu dụng.
Dùng một câu Phật hiệu để gia tŕ hết
thảy chư Bồ Tát, từ Sơ Phát Tâm cho đến
Đẳng Giác. Tâm quư vị một niềm thanh tịnh
niệm câu Phật hiệu này, sức mạnh chẳng
thể nghĩ bàn. Trong câu Phật hiệu ấy, A Di Đà
Phật là ǵ? Là danh xưng của tự tánh. Đem dịch ra, đấy là tiếng
Ấn Độ, tức tiếng Phạn, dịch là Vô
Lượng, Phật là Giác Ngộ, [A Di Đà Phật] là Vô
Lượng Giác Ngộ, Vô Lượng Giác, Vô Lượng
Trí Huệ, Vô Lượng Giác Ngộ. Đó là bản
năng trong tự tánh, tự tánh vốn là vô lượng
giác. Dùng câu danh hiệu này để khai phát vô lượng
trí huệ, vô lượng giác ngộ trong tự tánh của
chính ḿnh, tác dụng ấy quá lớn! Thuở đầu
chúng tôi học tập kinh giáo, những danh từ thuật
ngữ ấy đều rất quen thuộc, v́ sao không
thể sanh khởi tín tâm? Chúng tôi chẳng tham cứu
thấu triệt kinh giáo, mà cũng chẳng có ai giảng rơ
ràng, minh bạch cho chúng tôi. Chúng tôi dùi mài kinh giáo chẳng
bỏ, tốn ngần ấy năm công phu, dần dần
thông hiểu, từ từ giác ngộ, bèn khẳng
định, chẳng c̣n hoài nghi, phương pháp này
khởi tác dụng.
Trong Phật môn, chúng ta niệm
A Di Đà Phật, Cơ Đốc giáo niệm
Thượng Đế có được hay không?
Được! Y Tư Lan giáo (Islam) niệm Chân Chúa, có
được hay không? Được! Cùng một
đạo lư! Chỉ cần quư vị tập trung ư
niệm vào một niệm, sẽ sanh ra năng
lượng chẳng thể nghĩ bàn, năng
lượng ấy có thể giải quyết hết
thảy vấn đề. Do đó, phải hiểu rơ
đạo lư, phương pháp chính xác, nhất định
chẳng hoài nghi, chẳng mê tín. Hiện tại, rất
nhiều người nói tôn giáo là mê tín, chúng ta nghe xong
cảm khái ngàn muôn, ai mê tín? Kẻ ấy mê tín. V́ sao nói
kẻ ấy mê tín? Quư vị nói tôn giáo là mê tín, tôn giáo là ǵ,
quư vị có biết hay không? Kẻ ấy không biết. Không
biết th́ xét theo thái độ, quư vị không có tư cách
để nói chuyện! Quư vị thiếu tư cách
để so sánh, thiếu tư cách để phê b́nh! Quư
vị hiểu rơ ràng, nói nó là đúng hoặc chẳng
đúng, quư vị có thể nói được. Quư vị chẳng
hiểu rơ ràng, sẽ đúng là mê tín. Tự lầm, lầm
người, tội lỗi ấy rất ư là nặng.
Định luật nhân quả thuộc vào mười pháp
giới; chưa vượt khỏi mười pháp
giới, quyết định có nhân quả, không có cách nào vi
phạm định luật nhân quả. Sau khi vượt
thoát mười pháp giới, quư vị giác ngộ toàn
bộ, hiểu rơ hoàn toàn, chính ḿnh mới thật sự làm
chủ tể, bốn chữ Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh thật sự làm được, cho nên có Chân Ngă.
Thân thể này là Giả Ngă, chẳng phải là Chân Ngă. Sau
khi minh tâm kiến tánh, đă t́m được Chân Ngă.
Định nghĩa của Ngă là tự tại, là chủ tể.
Quư vị thật sự có thể làm chủ. Hiện
tại, chúng ta chưa thể làm chủ. Nếu có thể
làm chủ, mỗi năm ta đều là mười tám
tuổi, đấy mới thật sự là làm chủ!
Mỗi năm một già yếu hơn, tức là chưa làm
chủ được. “Tôi mỗi ngày vui sướng
lắm”, quư vị chẳng làm được! Ngă có
nghĩa là chủ tể. Kiến tánh, chủ tể
hiện tiền, quư vị thật sự có thể làm
chủ. V́ thế, cuối cùng nói: “Chánh thị Hiền Hộ chi nghĩa” (Chính là ư
nghĩa của Hiền Hộ). Biển nguyện Nhất
Thừa, sáu chữ hồng danh, thích hợp khắp ba
căn, gồm thâu vạn loại, mười sáu chữ
ấy đă bao gồm toàn bộ nội dung kinh Vô Lượng
Thọ. Thích Ca Mâu Ni Phật triệu tập pháp hội này,
giảng khóa học này, giảng những điều ǵ?
Chính là giảng mười sáu chữ ấy. Đặc biệt
là Nhất Thừa rất lỗi lạc. Nhất Thừa
là thành Phật, đạt đến viên măn rốt ráo.
Chúng ta lại xem tiếp: “Hựu Thiện Tư Duy,
biểu chánh trí minh liễu, thâm tín Phật huệ, tịnh
biểu Pháp Tạng nhân địa ngũ kiếp tư duy,
kết đắc đại nguyện chi thắng nhân”
(Thêm nữa, Thiện Tư Duy biểu thị chánh trí minh
liễu (hiểu trọn vẹn rơ ràng), tin sâu Phật
huệ, lại c̣n biểu thị: Ngài Pháp Tạng lúc c̣n tu
nhân, tư duy trong năm kiếp, kết thành thắng nhân
đại nguyện). Do vậy, danh hiệu đều
nhằm biểu thị pháp, tượng trưng cho chánh trí
sáng tỏ. Chánh trí không do bên ngoài mà có, mà chính ḿnh vốn sẵn
có, như đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ
của Như Lai”, đấy là chánh trí. Trí huệ
của chúng ta không sáng tỏ, có chướng ngại,
thứ ǵ chướng ngại? Vọng tưởng là
tầng chướng ngại thứ nhất, phân biệt
là tầng chướng ngại thứ hai, chấp
trước là tầng chướng ngại thứ ba. Do ba
tầng chướng ngại, trí huệ của chúng ta
chẳng thể thấu lộ, trí huệ chẳng có.
Thật ra, đó là thật, chẳng giả, v́ sao trí
huệ chẳng thể thấu lộ? Sau khi trí huệ
xuyên qua ba thứ chướng ngại ấy, nó cũng
tỏ lộ, nhưng tỏ lộ thành ǵ? Đă bị
biến chất, biến thành ǵ? Biến thành phiền năo.
V́ thế, trong kinh, đức Phật đă nói rất hay: “Phiền năo tức Bồ
Đề, sanh tử tức Niết Bàn”, lời này
rất vi diệu. Phiền năo và trí huệ là một
chuyện, khi không mê, nó được gọi là trí huệ;
khi đă mê bèn gọi là phiền năo. Do vậy, có thể
đoạn phiền năo hay không? Chẳng thể
đoạn. Phiền năo đă đoạn, trí huệ
chẳng c̣n! Chúng là hai mặt của một Thể. Do
vậy, lời chánh thuyết trong kinh Phật là: “Chuyển phiền năo thành Bồ
Đề”, phải chuyển biến nó, chẳng
thể đoạn nó. V́ nó là Tánh Đức trong tự tánh,
quư vị chẳng thể đoạn được, nó
vĩnh viễn tồn tại, chẳng sanh, chẳng
diệt, nhưng nó có mê và ngộ, mê là phiền năo, ngộ
là trí huệ.
Chỉ có chánh trí sáng tỏ, quư
vị mới tin sâu Phật huệ. Phật là người
chứng đắc minh tâm kiến tánh, v́ sao? Ngài chẳng
có phiền năo, hoàn toàn chuyển biến thành trí huệ, quư
vị tin tưởng Ngài. Chúng ta chưa chuyển
được, vẫn là phiền năo, chẳng chuyển
thành Bồ Đề. Sau khi chúng ta đă chuyển
được, sẽ giống như các Ngài, Phật
Phật đạo đồng, không tăng, không giảm.
V́ vậy, Phật pháp vĩnh viễn là pháp b́nh
đẳng. Trí huệ của Phật là trí huệ của
chính chúng ta, đă hiểu rơ, chẳng c̣n chướng
ngại nữa! Nói theo phía Phật, phiền năo của chúng
ta chính là trí huệ của Phật, do trong ấy có
chướng ngại, nên trí huệ bị biến chất,
chuyện là như thế đó! Biến chất là nhất
thời, là tạm thời, chẳng phải là vĩnh
hằng, rất dễ khôi phục b́nh thường. Khôi
phục b́nh thường sẽ chẳng hai, chẳng khác
với Phật; v́ thế, Phật tôn trọng phàm phu,
chẳng có mảy may tâm lư khinh mạn. Trong mắt
Phật, hết thảy chúng sanh đều giống như
Ngài, chẳng hai, chẳng khác. Chỉ cần quư vị giác
ngộ, chỉ cần quư vị chịu buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư
vị sẽ giống như Ngài. V́ thế, tin sâu Phật
huệ rất khó khăn, chúng tôi huân tập kinh giáo một
thời gian lâu như thế mới dần dần thông
hiểu, chẳng c̣n có mảy may hoài nghi!
Về phương diện
biểu pháp th́ sao? Ngài cũng hiển thị “Pháp Tạng nhân địa”,
Pháp Tạng Bồ Tát là kiếp xưa của A Di Đà
Phật. Trước khi Ngài thành Phật, trong quá tŕnh tu
hành, Ngài có pháp hiệu là Pháp Tạng, tức tỳ-kheo Pháp
Tạng, hoặc Pháp Tạng Bồ Tát. Trong khi tu nhân, Ngài
đă tu bao lâu? Năm kiếp, “ngũ
kiếp tư duy”, hai chữ [tư duy] trọng yếu,
Ngài nghĩ tới ǵ? Nghĩ tới thế giới Cực
Lạc, tư duy năm kiếp, suy nghĩ thành công, thế
giới Cực Lạc hiện tiền. Hết thảy các
pháp sanh từ tâm tưởng, chẳng phải là
đạo lư như vậy ư? Nay chúng ta hiểu rơ, chúng
ta có nhiều đồng học ngần ấy, nếu quư
vị hiểu được thâm ư hàm tàng trong câu này, A Di
Đà Phật lại c̣n chứng minh cho
quư vị, thế giới Cực Lạc thật sự do
Ngài tưởng ra, từ trong Không sanh ra Có. Nếu chúng ta
có thể sử dụng thời gian năm mươi
năm, dùng thời gian một trăm năm để suy
tưởng, suy tưởng khiến cho địa cầu
khôi phục b́nh thường giống như thế
giới Cực Lạc; có thể thành công hay không?
Chắc chắn có thể thành công. Chỉ có một
niệm, chẳng thể có niệm thứ hai. Niệm
thứ hai là xen tạp, phá hoại niệm này. Cùng một
đạo lư giống như vậy, chúng ta chỉ có
một niệm thanh tịnh, nghĩ thân tâm của chính ḿnh
mạnh khỏe, có thể đạt được
thân tâm khỏe mạnh hay không? Có thể! Thế gian
có pháp hay không? Không có pháp, pháp ǵ cũng không có. Hễ có th́
là ǵ? Có th́ là tâm thái, là ư niệm. V́ thế, các nhà khoa
học ngày nay bảo: Tất cả các hiện tượng
vật chất trong thế gian đều do ư niệm tích
lũy liên tục phát sanh huyễn tướng,
được gọi là vật chất. Trên thực
tế, không có vật chất, bất cứ vật
chất ǵ cũng có thể trở về năng
lượng, các khoa học gia đă đưa ra [luận
điểm] này rất sớm. Vật chất và năng
lượng có thể chuyển biến thành lẫn nhau, họ
đưa ra một học thuyết như vậy. Hiện
thời, Lượng Tử giảng rơ ràng hơn, hết
thảy vật chất đều là ư niệm tích lũy.
Một ư niệm tốt, một ư niệm thuần tịnh,
thuần thiện, khi hiển lộ sẽ là thế
giới Cực Lạc.
Hiện thời, xă hội
rối ren ngần ấy, tai nạn trên địa cầu
nhiều ngần ấy, do ǵ? Do ư niệm bất thiện,
tự tư tự lợi, tham, sân, si, mạn, tổn
người, lợi ḿnh, đều do những ư niệm
ấy. Người trên cả thế giới đều có
những ư niệm như thế, đó là ư thức của
tập thể, sức mạnh to lớn, sức mạnh
ấy có thể hủy diệt địa cầu. Chúng ta
đă hiểu rơ đạo lư này, muốn cứu vớt
địa cầu này th́ phải chuyển biến ư
niệm. Một số ít người chuyển
được th́ cũng có thể sanh ra hiệu quả
chẳng nghĩ bàn. Khoa học gia đă cung cấp một
vài con số, đối với số lượng con
người trên toàn thế giới, lấy căn bậc
hai của một phần trăm con số ấy, sẽ
chưa tới tám ngàn người, không phải là tám ngàn
vạn, mà là tám ngàn người. Cũng có nghĩa là trên
thế giới này, nếu có tám ngàn người tập trung
ư niệm, chuyển biến tâm thái thành tốt đẹp
nhất, thiện nhất, sẽ có thể hóa giải tai
nạn trên thế giới này. Chúng ta có thể tin
tưởng [điều ấy] hay không? Hiện thời,
cư dân trên địa cầu là sáu mươi ức,
[thế mà] tám ngàn người có thể cứu [toàn thể
cư dân trên địa cầu], quư vị có tin hay không? Người
đông như thế làm chuyện xấu, tám ngàn
người tốt có thể cứu! Tôi tin tưởng,
dựa vào đâu để tin tưởng? Tổ tông chúng
ta có nói: “Tà chẳng thắng
chánh”, con người đa số là tà tri tà kiến, tám
ngàn người ấy chánh tri chánh kiến, tôi tin
tưởng câu ấy, tà chẳng thắng chánh. Phải
phát chân tâm, chẳng có chính ḿnh, hễ thêm một chút tâm
tự lợi ḿnh vào đó là không được, sẽ là
vọng tâm. Chúng ta dùng chân tâm, làm thế nào để
biến vọng tâm thành chân tâm? Bốn câu ấy hay lắm:
“Nhất Thừa nguyện
hải, lục tự hồng danh, tam căn phổ bị,
vạn loại tề thâu”, mười sáu chữ ấy
quá hay! Trọng yếu nhất là học theo A Di Đà
Phật, Nhất Thừa nguyện hải trong khi tu nhân,
Nhất Thừa là thành Phật, đạt đến
rốt ráo viên măn. Thế giới Cực Lạc do
mười sáu chữ ấy tu thành, thiện tư duy
đấy! Dùng thời gian năm kiếp [để tư
duy], rốt cuộc xuất hiện thế giới Cực
Lạc. “Kết đắc
đại nguyện chi thắng nhân”, cái nhân thù thắng
khôn sánh! Do vậy, thế giới Cực Lạc là quả
báo thù thắng khôn sánh!
“Huệ
Biện Tài” Bồ Tát, “biểu
minh tín Phật huệ, biện tài vô ngại, tức kinh
trung” (Huệ Biện Tài biểu thị tin hiểu
Phật huệ, biện tài vô ngại như trong kinh) đă nói: “Diễn
từ biện, thọ pháp nhăn, thường dĩ pháp âm
giác chư thế gian chi nghĩa” (các ư nghĩa “diễn
nói từ vô ngại biện tài, trao truyền pháp nhăn,
thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian”). Mấy
câu kinh văn này, trong phần sau sẽ được nói
đến. Sở dĩ, trong xă hội hiện thời,
chúng ta trong hết thảy thời, hết thảy
chốn, chẳng bị cảm nhiễm, c̣n có thể ǵn
giữ cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, hiểu rơ trí
huệ, là do cậy vào đâu? Cậy vào kinh giáo. Tôi tin
tưởng các đồng học có cùng cảm nghĩ
với tôi, sự vui sướng nhất trong một ngày
của chúng ta là ǵ? Khi cùng nhau học tập kinh giáo, vui
sướng khôn sánh! Thầy Phương bảo tôi: “[Học Phật là] sự
hưởng thụ cao nhất trong đời
người”, chúng tôi mới hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật
suốt ngày giáo học, vui sướng khôn sánh. Thật
vậy, chẳng giả! Ngài giáo học chưa hề
chẳng gián đoạn, một người Ngài cũng
dạy, hai người Ngài cũng dạy, không câu nệ
số người bao nhiêu, chẳng có thời gian nhất
định, chẳng có nơi chốn nhất định,
thấy người [t́m đến học] Ngài bèn dạy,
chẳng bỏ sót một ai. Đó là bậc thầy khuôn
mẫu, là giáo viên điển h́nh, một vị thầy
tốt đẹp! Toàn tâm toàn ư dạy quư vị, chẳng
có mảy may tự tư tự lợi, chẳng có! Giúp quư
vị khai ngộ, minh tâm kiến tánh, trở về tánh
đức. Quư vị thấy sung sướng lắm
chứ! Trong giáo lư Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Bồ Tát ở chỗ nào đều
khiến cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ”, pháp
hỷ sung măn. Thật đấy, chẳng giả tí nào!
Tiếp đó: “Quán Vô Trụ, kiến Đường dịch,
Ngụy dịch tác Không Vô” ([Danh xưng] Quán Vô Trụ
thấy ghi trong bản dịch đời Đường,
bản dịch đời Ngụy ghi là Không Vô). Bản
Khang Tăng Khải và trong kinh Đại Bảo Tích
đều dịch là Không Vô, có cùng ư nghĩa với Quán Vô
Trụ. “Biểu kinh trung: Thí
thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng,
ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc”
(Biểu thị ư nghĩa sau đây trong kinh: “Ví như
người khéo làm huyễn thuật, hiện các
tướng lạ, nhưng các tướng ấy thật
sự chẳng thể có được”). Đây là kinh
văn trong phần sau, chúng tôi cũng dành lại để
giảng sau. Đoạn kinh văn ấy ư vị vô cùng. “Diệc biểu Pháp Tạng
vĩnh kiếp nhân hạnh, thuyết Không, Vô Tướng,
Vô Nguyện chi pháp” (cũng biểu thị ngài Pháp
Tạng bao kiếp tu nhân hạnh, nói các pháp Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện). Trong danh hiệu này, cũng
biểu thị A Di Đà Phật trong khi tu nhân, năm
kiếp tu hành, đó là nhân hạnh (hạnh được
tu tập trong khi tu nhân); nói Không, Vô Tướng, Vô
Nguyện, đây cũng là ba pháp ấn trong Đại
Thừa Phật pháp, chúng ta dành lại để học
tập trong phần sau.
“Thần
Thông Hoa, biểu tùng thần thông lực, tập vạn
hạnh chi đức hoa, dĩ tự trang nghiêm, cụ túc
phương tiện, thành tựu chúng sanh. Như kinh vân: Du
bộ thập phương, hành quyền phương
tiện” (Thần Thông Hoa biểu thị sức thần
thông, muôn hạnh kết thành đức hoa để
tự trang nghiêm, đầy đủ phương tiện
thành tựu chúng sanh như kinh chép: “Dạo chơi
mười phương, hành phương tiện quyền
biến”), Ngài đại biểu ư nghĩa này. Tự ḿnh
thành tựu và giúp đỡ chúng sanh, chẳng thể không
có sức thần thông. Sức thần thông có phạm vi
rộng lớn vô hạn. Quư vị nh́n chữ Thần (神) này, chúng tôi
thường nói văn tự Trung Quốc là phù hiệu trí
huệ. Chúng ta thấy bên trái chữ Thần là chữ
Thị (示),
quư vị xem chữ này viết theo lối chữ Triện
sẽ thấy rất rơ ràng. Phía trên là một vạch
ngắn nằm ngang, phía dưới là một vạch dài
nằm ngang, đó chữ là Thượng viết theo
lối chữ Triện thời cổ. Chữ Hạ th́
phía trên dài, phía dưới ngắn, đó là chữ Hạ.
Phía dưới chữ Thượng có ba vạch sổ
xuống, mang ư nghĩa biểu thị các h́nh tượng
trên bầu trời. Nói theo cách bây giờ, tức là hiện
tượng tự nhiên. Chữ “Thị”
tượng trưng hiện tượng tự nhiên, quư
vị thấy hiện tượng tự nhiên. Bên phải
là chữ Thân (申), chữ Thân viết theo lối chữ Triện
sẽ giống như ba cái ải. Ba cửa ải ấy
quư vị đều có thể vượt qua, đấy
chính là ư nghĩa của chữ Thân. Gộp các ư nghĩa
ấy lại, quư vị có thể thông đạt hiện
tượng tự nhiên bèn gọi là Thần. Do vậy,
đối với hiện tượng tự nhiên trong
vũ trụ, quư vị đều biết, đều
hiểu rơ, bèn gọi là Thần, mang ư nghĩa ấy. “Thần” và “Thông”, sự thông đạt ấy mang ư nghĩa
tương thông, nên thường cùng nhau khởi tác
dụng, v́ thế gọi là Thần Thông. Quư vị có thể thông đạt hết thảy các
pháp, quư vị có năng lực ấy. Đấy là ǵ?
Đó là trí huệ, chỉ có trí huệ mới có thể
thông đạt, tri thức không được. Tác dụng
của tri thức chẳng lớn, nó có hạn cuộc,
mà c̣n để lại hậu quả; trí huệ không có
[những rắc rối ấy], trí huệ xử lư vấn
đề chẳng hạn cuộc, lại c̣n chẳng
để lại hậu quả. Trong thế giới
hiện thời, dùng tri thức, chẳng dùng trí huệ.
Phàm là người dùng trí huệ, tâm thanh tịnh, tâm
Định. V́ thế, trong Phật pháp dùng “long tượng”
để biểu tượng [điều ấy]: “Na Già[14]
thường tại Định, vô hữu bất
định thời” (đức Phật thường
trong Định, không lúc nào chẳng định), dùng long
tượng để biểu thị. Chúng ta chưa
thấy rồng, nhưng đă thấy voi. Chúng ta thấy
voi to giống như nhập Định. Nó đứng,
bốn phương tám hướng b́nh ổn; bước
đi, chậm răi, từng bước một, luôn ở
trong Định. Đi, đứng, nằm, ngồi, quư
vị thấy nó tâm luôn Định, Bồ Tát phải
lấy điều đó làm khuôn mẫu, phải
thường học theo. Thời thời khắc khắc
tâm thanh tịnh, tâm bèn Định. Định sanh Huệ,
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, phản
ứng là trí huệ, chẳng phải là tri thức.
V́ thế, con người
chớ nên tâm tư lao chao, bộp chộp. Kẻ tâm trí lao
chao, bộp chộp, thầy chẳng muốn nhận,
vị thầy thật sự truyền đạo chẳng
muốn nhận quư vị. V́ sao? Quư vị chẳng học
được! Thầy thấy quư vị trầm tĩnh,
ổn trọng, ổn định, người này là nhân
tài, là pháp khí, thầy sẽ thật sự giúp quư vị.
Quư vị không muốn học, thầy cũng t́m cách
khiến cho quư vị học. V́ sao? Thầy v́ truyền
đạo, chẳng phải v́ một ai! Quan trọng là
chánh pháp đại đạo phải có người
tiếp nhận, truyền thừa, điều này là quan
trọng! Gặp người như thế, thầy
chắc chắn chẳng vứt bỏ, phải thành
tựu kẻ ấy, tuy kẻ ấy chẳng có liên quan ǵ
đến ta, vẫn phải truyền đạo. Đó là
đại từ đại bi, chịu trách nhiệm
đối với chánh pháp, chịu trách nhiệm
đối với hết thảy chúng sanh. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.
Ngày mai chúng ta học từ Quang Anh Bồ Tát.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 48
[1] Ở đây, Ḥa Thượng giảng
thêm về danh xưng Sa Bà, những câu này trích từ
Phật Học Đại Từ Điển của
Đinh Phước Bảo, chứ không phải là những
câu được viết trong bộ Chú Giải của
cụ Hoàng Niệm Tổ.
[2] Pháp Hoa Huyền Tán có tên đầy
đủ là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, gồm
mười quyển, do ngài Khuy Cơ soạn. Trong tác
phẩm này, Khuy Cơ đại sư đă dựa trên
lập trường Pháp Tướng Duy Thức, nhất là
lư luận trong Nhiếp Đại Thừa Luận
để phán định Nhất Thừa, Tam Thừa, phê
b́nh các thuyết của tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm. Ngài trích
dẫn rất nhiều đoạn từ Pháp Hoa Luận của
Thế Thân Bồ Tát để nhận định về
duyên khởi của kinh Pháp Hoa, xiển minh tông chỉ,
giải thích tựa đề kinh, cũng như giải
thích đại lược nội dung chánh kinh.
[3] Ở đây, tên tác phẩm bị nói
lầm, phải là Pháp Hoa Huyền Tán.
[4] Đây là nói theo cách phát âm đời
Đường, chứ nếu căn cứ theo âm
đọc Quan Thoại hiện thời (Sa Bà là Suō Pó và Sách Ha là Suǒ Hē), sẽ
thấy cả hai âm đều chẳng có âm nào gần
với âm tiếng Phạn Sahaloka-dhatu.
[5] Phật Tổ Thống Kư, đúng ra phải là Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) là một tác phẩm do ngài Chí
Khánh soạn vào đời Tống gồm năm
mươi bốn quyển, chép về lịch sử
Phật giáo. Sách bắt đầu bằng Thích Ca Mâu Ni
Phật Bổn Kỷ, kế tiếp là truyện kư của
lịch đại tổ
sư Trung Quốc. Theo sách này, đức Phật giáng sanh
vào năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương
(1029 trước Công Nguyên). Sách chép các sự kiện
Phật giáo từ năm 1027 trước Công Nguyên
đến năm Hàm Thuần thứ năm (1259)
đời Tống Độ Tông, chú trọng chủ
yếu sự truyền thừa của tông Thiên Thai,
đồng thời nói thêm một số tông phái khác.
[6] Bản kinh này có tên gọi đầy
đủ là Độ Thế Phẩm Kinh, do ngài Pháp Hộ
xứ Đại Nhục Chi dịch vào đời Tây
Tấn, gồm sáu quyển. Đây là một bản
dịch khác của phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm.
[7] Kim Cang Lực Sĩ (Vajrapānibalin): Trong Mật Tông, danh xưng này có hai cách hiểu:
1. Danh xưng của một vị hộ pháp thần, thường là Bồ Tát hoặc cổ Phật thừa nguyện ủng hộ Phật pháp, hóa hiện thân tướng dũng mănh, phẫn nộ, đáng sợ, cầm Kim Cang Xử hộ tŕ Tam Bảo. Vị Kim Cang Lực Sĩ nổi tiếng nhất tên là Mật Dao, c̣n gọi là Na La Diên đă phát nguyện hộ tŕ một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp. Theo hội Kim Cang Lực Sĩ trong kinh Đại Bảo Tích, vào thời quá khứ, Chuyển Luân Thánh Vương Dũng Quân có một ngàn lẻ hai người con trai. Hai người con trai út là Pháp Ư và Pháp Niệm. Pháp Ư phát nguyện khi một ngàn vị vương tử thành Phật, sẽ theo hộ tŕ, làm Kim Cang Lực Sĩ để hộ tŕ những pháp bí yếu của Phật.
2. Kim Cang Lực Sĩ là từ ngữ gọi gộp chung của Kim Cang và Lực Sĩ. Kim Cang c̣n gọi là Nan Thắng Kim Cang là danh xưng của các vị hộ pháp cầm Kim Cang Xử thủ hộ, ngăn ngừa kẻ ác phá hoại. Lực Sĩ cũng là thần thủ hộ tương ứng thường đi chung với Kim Cang, nên c̣n gọi là Đối Diện Kim Cang. Các tự viện thường đắp tượng hai vị này thủ hộ hai bên Đại Hùng Bảo Điện. Có thuyết lại nói vị bên trái là Tả Phù Kim Cang (tức Mật Dao Kim Cang), vị bên trái là Hữu Bật Kim Cang (tức Na La Diên). Hiểu theo nghĩa này th́ Na La Diên khác với Mật Dao Kim Cang.
Như vậy là khi dùng danh xưng Lực Sĩ,
đă hạn cuộc trong ư nghĩa các vị Đại
Bồ Tát hóa thân làm thần hộ pháp.
[8] Kinh này có tên gọi đầy
đủ là Văn Thù Sư Lợi Phật Độ Nghiêm
Tịnh Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây
Tấn. Đây là một bản dịch khác của hội
Văn Thù Sư Lợi Thọ Kư trong kinh Đại Bảo
Tích. Kinh này trần thuật công đức và sự nghiêm
của cơi Tịnh Độ của ngài Văn Thù sau khi
thành Phật.
[9] Tác phẩm này có tên gọi đầy
đủ là Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn
Xuất Sanh Nghĩa, do ngài Bất Không dịch, nội dung
giải thích ư nghĩa từ Pháp Thân xuất sanh ba
mươi bảy tôn thánh trong Kim Cang Giới Mạn Đồ
La. Ba mươi bảy tôn thánh chính là:
- Năm vị Phật ứng với Ngũ Trí
của Như Lai (Đại Nhật Như Lai, A Súc Như
Lai, Bảo Sanh Như Lai, Vô Lượng Thọ Như Lai,
và Bất Không Như Lai), mỗi vị Phật có bốn
vị Bồ Tát chầu hầu. Chẳng hạn như Vô
Lượng Thọ Như Lai kết Di Đà Định
Ấn, có các vị Bồ Tát Kim Cang Pháp, Kim Cang Lợi, Kim
Cang Nhân, Kim Cang Ngữ chầu hầu.
- Bốn vị Ba La Mật Bồ Tát: Kim Cang Ba La
Mật, Bảo Ba La Mật, Pháp Ba La Mật và Nghiệp Ba
La Mật (bốn vị này chầu hầu Đại
Nhật Như Lai).
- Mười sáu vị Đại Bồ Tát (các
vị này vây quanh bốn vị Như Lai c̣n lại): Kim Cang
Tát Đỏa, Kim Cang Vương, Kim Cang Ái, Kim Cang Hỷ,
Kim Cang Bảo, Kim Cang Quang, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tiếu, Kim Cang
Pháp, Kim Cang Lợi, Kim Cang Nhân, Kim Cang Ngữ, Kim Cang
Nghiệp, Kim Cang Hộ, Kim Cang Nha, Kim Cang Quyền.
- Tám vị cúng dường Bồ Tát: Kim Cang Hy Hư, Kim
Cang Hoa Man, Kim Cang Ca Vịnh, Kim Cang Pháp Vũ, Kim Cang
Phần Hương, Kim Cang Giác Hoa, Kim Cang Đăng Minh,
Kim Cang Đồ Hương. Bốn vị đầu
gọi là Nội Cúng Dường do Đại Nhật
Như Lai lưu xuất để cúng dường bốn
vị Như Lai kia, bốn vị sau là Ngoại Cúng
Dường, do bốn vị Phật kia lần
lượt lưu xuất để cúng dường
Đại Nhật Như Lai.
- Tứ Nhiếp Bồ Tát: Kim Cang Câu, Kim Cang Tác, Kim
Cang Tỏa, Kim Cang Linh.
[10] Sách Danh Nghĩa Tập có tên gọi
đầy đủ là Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập,
gồm bảy quyển do ngài Pháp Vân biên soạn, hoàn thành
vào năm Thiệu Hưng 13 (1143) đời Nam Tống.
Sách được chia thành 44 thiên, gồm 2.000 từ
ngữ nhằm giải thích các danh từ thường dùng
trong kinh Phật. Đối với mỗi từ gồm có
phần nêu các cách phiên âm khác nhau của cùng một từ
ngữ, phân biệt cách dịch nào là dịch theo ư, cách
dịch nào là dịch sát nghĩa, đồng thời
dẫn chứng các kinh luận tương quan.
[11] Cư sĩ Vương Ân Tường
(1897-1964) là người huyện Nam Sung, Tứ Xuyên, có tên
tự là Hóa Trung. Ông học Duy Thức với Âu
Dương Cánh Vô và được coi là đệ tử
nhập thất. Năm 1925, đảm nhiệm dạy Duy
Thức tại Chi Na Nội Học Viện. Năm 1942 sáng
lập Đông Phương Văn Giáo Nghiên Cứu Viện,
kể từ năm 1957 ông dạy học tại Phật
Học Viện Trung Quốc. Ông sở trường về
Duy Thức, các tác phẩm Nhiếp Đại Thừa
Luận Sớ, Duy Thức Thông Luận, Tâm Kinh Thông
Giải, Phật Học Thông Luận, Nhân Sinh Học,
Khởi Tín Luận Liệu Giản của ông
được đánh giá rất cao.
[12] Bản kinh này có tên gọi đầy
đủ là Tứ Đồng Tử Tam Muội Kinh do ngài
Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, ba quyển,
chính là một bản dịch khác của sáu phẩm
đầu kinh Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh. Trong
kinh này, đức Phật sắp nhập diệt tại
thành Câu Thi Na, đă giảng đạo Niết Bàn cho A Nan,
A Nậu Lâu Đà và bốn vị đại Bồ Tát
tại gia.
[13] Kinh Phật Danh có tên đầy
đủ là Phật Thuyết Phật Danh Kinh, gồm mười
hai quyển, do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào
thời Nguyên Ngụy. Do trong kinh liệt kê hơn một
vạn vị Phật (khoảng chừng 11.093 vị
Phật), đồng thời liệt kê thêm danh hiệu của
vài trăm vị Bích Chi Phật và Bồ Tát, nên bản
dịch tiếng Việt ghi là kinh Vạn Phật.
[14] Na Già có nghĩa gốc là rồng (phiên
âm của chữ Nāga). Kinh Phật thường gọi
Phật hoặc A La Hán là Ma Ha Na Già, nhằm sánh ví bậc
đại lực dụng, giống như rồng có
thể ẩn hiển khôn lường. Huyền Ứng Âm
Nghĩa quyển 3 giảng: “Na
Già có ba nghĩa, một là rồng, hai là voi, ba là Bất Lai,
Khổng Tước Kinh gọi Phật là Na Già, do Phật
chẳng c̣n sanh tử”. Đại Nhật Kinh Sớ,
quyển 5, giảng: “Ma Ha Na Già
là biệt hiệu của Như Lai, do Ngài có đại
dụng không ngằn mé, chẳng thể nghĩ bàn”.